banner_nha dong

Cam Hòa – Cam Lâm – Khánh Hòa – Đt 0258 3863020 – Email: websitemtgnt@gmail.com

CÁC THÁNH NAM NỮ

Đăng lúc: Thứ tư - 28/10/2020 03:24 - Người đăng bài viết: menthanhgia
CÁC THÁNH NAM NỮ

CÁC THÁNH NAM NỮ

Lời Chúa: Kh 7: 2-4, 9-14; 1Ga 3: 1-3; Mt 5: 1-12

Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan chứa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa. Đối với những ai đang lữ hành trên trần thế nầy, Giáo Hội đề nghị “các mối phúc thật” sẽ đưa dẫn họ về cuộc sống đời đời nầy. Ngày lễ Chư Thánh là ngày lễ của niềm hy vọng.

Kh 7: 2-4, 9-14
Bài Đọc I, trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người đông đúc không kể xiết cử hành phụng vụ hùng vĩ tràn đầy niềm vui và tạ ơn trước ngai Thiên Chúa.

1Ga 3: 1-3
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Gioan, nhắc người Ki-tô hữu nhớ vận mệnh của mình: trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, họ được mời gọi nên giống Con Một, Đức Giê-su Ki-tô, vì thế được dự phần vào vinh quang của Ngài.

Mt 5: 1-12
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su công bố “các mối phúc thật”, bản Hiến Chương Nước Trời.

BÀI ĐỌC I (Kh 7: 2-4, 9-14)
Bài Đọc I, trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người đông đúc không tài nào đếm nổi vui hưởng thánh nhan Thiên Chúa và niềm hoan lạc thiên quốc. Lễ Chư Thánh được mừng trước Lễ Các Đẳng hình thành nên bộ đôi diễn tả niềm hy vọng của người tín hữu.

Thánh Gioan mô tả những thị kiến của mình bằng văn thể khải huyền. Thể loại văn chương nầy đã được tác giả sách Đa-ni-en khai mạc vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ngôn sứ Đa-ni-en đã được gợi hứng từ các vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt thị kiến của ngôn sứ  Ê-dê-ki-en, từ đó sách Khải Huyền của thánh Gioan mượn một số lượng biểu tượng.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt rất rõ nét giữa các sách khải huyền Do thái với sách khải huyền của thánh Gioan. Với sách khải huyền của thánh Gioan, kỷ nguyên thiên sai được loan báo nay đã xảy ra. Thời thiên sai đã đi vào trong Lịch Sử; từ nay, nó soi chiếu kỷ nguyên cánh chung. Trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một nhân vật ngự trị dưới danh hiệu “Con Chiên”, hình ảnh của Đức Ki-tô. Con Chiên vẫn mang những vết thương hy tế trên bản thân mình, nhưng là Con Chiên khải hoàn. Như vậy, viễn cảnh này mở ra một niềm hy vọng, niềm hy vọng nầy không còn ước mơ nhưng là thực tại: mọi lời hứa đã được ứng nghiệm.

Sách Đa-ni-en được viết vào thời kỳ bách hại của vua Hy-lạp là An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê, khoảng năm 175-164 trước Công Nguyên, nhằm để an ủi dân Do thái trong cơn thử thách. Sách Khải Huyền của thánh Gioan được viết vào thời kỳ bách hại của các hoàng đế Rô-ma khoảng năm 64-96 sau Công Nguyên cũng nhằm cùng một mục đích: gởi đến các Ki-tô hữu một sứ điệp chứa chan hy vọng, cho họ thoáng thấy niềm hoan lạc thiên quốc, vì niềm hy vọng lớn lao nầy thật đáng phải chịu những đau khổ kể cả sự chết.

Như các sách khải huyền Do thái, sách Khải Huyền của thánh Gioan là một cuốn sách được mã hóa cần được giải mã, nhờ mã hóa các tín hữu bị bách hại có thể đọc và chuyền tay nhau mà không phải sợ những kẻ bách hại mình đọc ra được. Rô-ma không bao giờ được nêu tên, nhưng được gọi dưới nhiều biệt danh khác như Ba-by-lon, Con Thú, Con Điếm, hoặc số 666 (số 6 biểu tượng sự bất toàn, ba con số 6 để chỉ sự bất toàn tận mức, đối lập với con số 7, con số chỉ sự hoàn hảo). Tác phẩm này tiên báo cuộc sụp đổ của đế quốc Rô-ma, cuộc khải hoàn của Giáo Hội và mô tả những viễn cảnh của thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Đoạn trích chúng ta đọc hôm nay trình bày hai viễn cảnh nối tiếp nhau: viễn cảnh thứ nhất (7: 2-4) xảy ra trên mặt đất, gợi ra Giáo Hội đang chịu cảnh gian nan khốn khó trong đó những người công chính được cứu độ. Viễn cảnh thứ hai (7: 9-14) là phụng vụ tạ ơn trên trời được cử hành bởi một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc đủ mọi dân nước.

1. Viễn cảnh thứ nhất: nỗi gian truân trên trần thế (7: 2-4):
Để hiểu ý nghĩa của thị kiến thứ nhất nầy, phải đặt nó trở lại vào trong bối cảnh lịch sử của nó. Những Ki-tô hữu bị bách hại tự hỏi những nỗi khốn khổ nầy sẽ kéo dài bao lâu? Khi nào những kẻ bách hại sẽ bị trừng trị? Nhà thị kiến rõ ràng nêu lên những vấn đề nầy và trả lời ở một đoạn văn trước đoạn trích của chúng ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: ‘Lạy Cha chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải nền nợ máu chúng con?’. Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ” (6: 9-11).

Như vậy, những Ki-tô hữu được báo trước thời kỳ bách hại chưa chấm dứt, nhưng giờ trừng phạt những kẻ gian ác sắp đến. Những tai ương khủng khiếp được loan báo theo viễn cảnh khải huyền về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vào thời cánh chung: chiến tranh, nạn đói, ôn dịch, động đất xảy đến trước khi Thiên Chúa xét xử. Tuy nhiên, các Ki-tô hữu không phải lo lắng, vì Con Chiên cứu độ ngự trên ngai xét xử muôn dân. Những người công chính sẽ được Ngài ghi ấn tín. “Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên”. Đây là biểu tượng kinh điển: chính từ phía mặt trời mọc nầy (phía Đông) mà ánh sáng và sự sống đến, trong khi phía mặt trời lặn (phía Tây) là dấu chỉ của bóng tối và sự chết.

Hình tượng “ấn tín” được mượn từ Ed 9: 4: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên xiết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành”. Hình tượng này được lấy ra từ sách Xuất Hành trong đó sứ thần lãnh sứ mạng “rảo khắp đất Ai-cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập”, trừ các nhà của dân Do thái được ghi dấu bằng máu “con chiên vượt qua” trên khung cửa (Xh 12: 12-13).

Ấn tín được ghi trên trán các Ki-tô hữu thì khác, nó thuộc thực tại tinh thần. Chắc chắn đọc giả của thánh Gioan biết từ ấn tín muốn nói lên điều gì: thuật ngữ nầy được dùng để chỉ “phép rửa tội” ngay từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Ý nghĩa của nó đã xuất hiện rồi trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô trong mạch văn Ba Ngôi Thiên Chúa: “Chính Người (Chúa Ki-tô) cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng. Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám…” (1: 21-22). Như vậy, qua mật mã và các biểu tượng nầy, những Ki-tô hữu bị bách hại được mời gọi nhớ lại rằng họ được Thiên Chúa ghi ấn tín, vì thế họ thuộc về gia đình đông đúc được bảo đảm ơn cứu độ đời đời.

Con số những người được đóng ấn là 144.000 người. Rõ ràng 144.000 là con số biểu tượng. 144 là tổng số của 12 x 12, để chỉ con số viên mãn, được nhân lên gấp ngàn lần. Như vậy con số 144.000 chỉ sự viên mãn vô tận, trong khi con số 12 được dùng để chỉ 12 chi tộc Ít-ra-en mới, tức là 12 Tông Đồ tiếp tục sự nghiệp 12 người con của Gia-cóp / Ít-ra-en.

Trong viễn cảnh của mình, truyền thống khải huyền có thói quen lồng quá khứ, hiện tại và tương lai vào với nhau. Ở đây Giáo Hội đương đầu với “quyền phá hoại đất trời”, đó là Giáo Hội muôn đời, đối mặt với biết bao gian nan thử thách, nhưng được Thiên Chúa bảo vệ và che chở.

2. Viễn cảnh thứ hai: phụng vụ tạ ơn trên trời (7: 9-14)
Viễn cảnh thứ hai mô tả đoàn rước phụng vụ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời. Một đoàn người thật đông không tài nào đếm được của thị kiến thứ hai nầy phải chăng cũng là một đoàn người được ghi ấn tín và được biểu tượng bởi con số 144.000 của thị kiến thứ nhất, hay nhà thị kiến đã thoáng thấy một đoàn người công chính, “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ”, đã thuộc về thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội? Dù thế nào, “chiều kích ơn cứu độ phổ quát” được hàm chứa ở nơi bức tranh nầy, như trước đây: “Ngài đã bị giết và lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân…” (5: 9-10).

Chỗ danh dự được ban cho những người được phúc tử đạo: “Họ đứng trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên”. “Họ mặc chiếc áo trắng”: biểu tượng của sự vô tội và vinh quang; “tay cầm nhành lá thiên tuế”: biểu tượng của sự khải hoàn; “họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”, vì “họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”.

Phụng vụ thiên quốc nầy rất trang trọng. Những người được tuyển chọn công bố ơn cứu độ của họ phát xuất từ Thiên Chúa và Con Chiên. Các thiên thần và những nhân vật khác đều phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô:
“A-men! Xin kính dâng
Thiên Chúa chúng ta
lời chúc tụng và vinh quang,
sự khôn ngoan và lời tạ ơn,
danh dự, uy quyền và sức mạnh,
đến muôn thuở muôn đời! A-men!” (7: 12).
Chúng ta cũng đã gặp thấy bài tán tụng ca tương tự về Con Chiên ở 5: 12:
“Con Chiên đã bị giết
nay xứng đáng lãnh nhận
phú quý và uy quyền,
khôn ngoan cùng sức mạnh,
danh dự với vinh quang,
và muôn lời cung chúc”.

Chúng ta ghi nhận rằng Thiên Chúa không được miêu tả tất cả; chỉ duy “ngai” chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, được bao quanh bởi triều thần bao gồm các thiên thần, Kỳ Mục và bốn Con Vật.

Ở chương 4, hai mươi bốn Kỳ Mục được trình bày đang ngồi trên các ngai, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên. Họ vừa là tư tế vừa là vương đế. Họ ngồi bên cạnh ngai Thiên Chúa. Đây không là những thiên thần nhưng những con người. Ở Ít-ra-en, tước hiệu Kỳ Mục được ban cho các thủ lãnh của dân (70 Kỳ Mục bên cạnh ông Mô-sê), cho những vị hữu trách trước các hội đường và cho một phần thành viên của Đại Hội Đồng. Trong Giáo Hội tiên khởi, đây cũng là tước hiệu dành cho những người chịu trách nhiệm trước các cộng đoàn Ki-tô hữu. Ý nghĩa của những nhân vật này vẫn bí nhiệm.

Bốn Con Vật kỳ bí cũng được miêu tả ở chương 4: “Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt” (4: 7-8).

Bốn Con Vật nầy được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 5-25). Xuất xứ của chúng là từ Ba-by-lon. Bốn bức tượng của bốn con vật thần thoại canh giữ cung điện Ba-by-lon: các sinh vật đầu người, mình sư tử, chân bò rừng và cánh đại bàng, biểu tượng sức mạnh và quyền năng. Trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en, những sinh vật lai tạp nầy được thắng vào xe của Đức Chúa, diễn tả sự siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en.

Sách Khải Huyền lấy lại bốn con vật biểu tuợng này. Chúng cũng được gộp chung vào một thị kiến về Thiên Chúa ngự trên ngai trong vinh quang của Ngài, nhưng ý nghĩa của chúng thì hơi khác. Bốn con vật gợi lên bốn phương trời, nói chính xác hơn, số bốn là con số biểu tượng của vũ trụ (trong nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo). Chúng biểu thị sự hoàn thiện của công trình sáng tạo và sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa trong công trình của Ngài (chung quanh và bên trong đầy những mắt); chúng được đồng hóa với các thiên thần, ngày đêm không ngừng ca ngợi kỳ công sáng tạo của Ngài.

Thị kiến hoàn tất với niềm hoan lạc của những người được tuyển chọn: “Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ” (7: 17).

BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-3)
Đoạn thư nầy, trích từ thư thứ nhất của thánh Gioan, tập trung vào một chủ đề duy nhất: “ơn gọi làm con của Thiên Chúa”. Người Ki-tô là con cái của Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha, nhưng ơn gọi nầy sẽ trở nên viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống Đức Ki-tô vào ngày Quang Lâm của Ngài.

1. Ơn gọi làm con của Thiên Chúa.
 Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề cốt yếu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi chúng ta được gọi là con cái của Ngài. Đây không là một tước hiệu mà Ngài ban thưởng cho chúng ta, nhưng một thực tại thâm sâu: “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Do thái, danh xưng diễn tả chân lý thâm sâu của người mang tên ấy: như vậy Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi liên kết chúng ta với Con Một của Ngài khi Ngài gọi chúng ta là “con của Ngài”. Phẩm chất nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: đó là lý do tại sao “thế gian không nhận biết chúng ta”. Những lời nầy xem ra vang dội lời của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 19).

Toàn bộ thư nầy được xây dựng theo hình thức phản đề. Cuộc sống Kitô hữu đối lập với cuộc sống của những người không tin hay những người theo lạc thuyết. Ở đây, phản đề bao phủ một phạm vi rộng lớn: thế gian, theo nghĩa tiêu cực, là thế giới tội lỗi “đã không nhận biết Thiên Chúa”.

Đoạn trích thư nầy có thể đặt nhan đề: “từ phép rửa tội đến việc thay hình đổi dạng”. Chúng ta được thay hình đổi dạng rồi bởi cuộc sống con cái Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu. Việc chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa chỉ thành tựu viên mãn khi chúng ta nên giống Con Một của Ngài vào thời cánh chung. Bản văn như muốn nói rằng chiêm ngắm Người Con trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Đó không là ý tưởng vì chúng ta đã được thay hình đổi dạng rồi ở nơi phẩm chất con cái Thiên Chúa của chúng ta.

Lời khẳng định của thánh Gioan là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là chứng nhân của cuộc Biến Hình, như được ám chỉ trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan:
“Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14b).

Chúng ta cũng gặp thấy sự thay hình đổi dạng trong tương lai nầy trong thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời xuống cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).

TIN MỪNG (Mt 5: 1-12)
Tin Mừng hôm nay được trích từ bài diễn từ đầu tiên trong số năm bài diễn từ hình thành nên cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu. Bài diễn từ đầu tiên nầy trải dài từ chương 5 đến 7 được gọi là “Bài Giảng Trên Núi”, vì ngay từ đầu, diễn từ nầy được định vị trong bối cảnh: “trên núi” (5: 1). Núi là nơi thuận lợi cho những mặc khải thần linh. Chính trên núi Xi-nai, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê (x. Xh 24: 1-2, 9). Chính cũng trên núi Ga-li-lê, Chúa Giê-su ban “những giáo huấn” cho dân mới của Ngài, nhưng không qua trung gian mà trực tiếp bằng uy quyền của chính Ngài. Đây không phải là Lề luật, càng không phải là những huấn lệnh, Chúa Giê-su đưa ra những cách sống mở lối vào Nước Trời, vì chúng cho phép họ hành xử như con cái đích thật của Thiên Chúa.

Thính giả đang lắng nghe Đức Giê-su bao gồm “đám đông”“các môn đệ của Ngài” (5 : 1-2). Vì thế, sứ điệp được gởi đến cho tất cả mọi người, đặc biệt cho các môn đệ. Quả thật, con đường thì hẹp, tuy nhiên nó mở rộng cho tất cả mọi người, cho đám đông thân cận và cho đám đông mênh mông, vô danh, tản mác trong thời gian và không gian, đám đông của những ai, dù không biết Ngài, đều có thể thuộc về Nước Trời, nếu đức hạnh của họ phù hợp với sứ điệp nầy, phù hợp với khoản Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại.

Phần đầu của bài diễn từ trên núi được gọi là các Mối Phúc, trong đó “tám Mối Phúc” đều bắt đầu với lời chúc phúc được gởi đến tất cả mọi người: “Phúc thay ai”, và được đóng khung bởi cùng một diễn ngữ: “Vì Nước Trời là của họ” (5 : 3 và 10). Qua tám Mối Phúc, Đức Giê-su mở rộng “Ki-tô giáo”.

Mối phúc thứ chín được gởi đến các môn đệ của Ngài: “Phúc thay anh em” (5 : 11). Mối Phúc thứ chín hiện tại hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh cụ thể của các môn đệ Đức Giê-su.

1. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó…” (5 : 3):
Thánh Lu-ca phát biểu cách giản dị: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6: 20). Thánh Mát-thêu mở rộng những viễn cảnh cho tất cả những ai có tâm hồn nghèo khó, theo đúng chiều hướng nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Ki-tô muốn: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (5 : 3). Sự nghèo khó không được ca ngợi ở nơi chính nó, bởi vì sự nghèo khổ có thể do sự biếng nhác, ăn không ngồi rồi, nhưng ở nơi sự giải thoát khỏi mọi gắn bó với của cải trần thế và mở lòng ra trước sự giàu có tinh thần.

Cuối cùng, khía cạnh thiên sai của mối phúc nầy thật hiển nhiên: Đức Giê-su sinh ra trong cảnh nghèo hèn và chết trong sự trần trụi để là quà tặng của Thiên Chúa được trao ban trọn vẹn cho con người. Đối với những ai lắng nghe Ngài và từ bỏ mọi sự mà theo Ngài, Ngài sẽ sai họ ra đi trên mọi nẽo đường thế giới, không tiền bạc không bao bị, hoàn toàn trơ trụi, nhưng giàu có tận mức sứ điệp tinh thần cần được công bố.

2.“Phúc thay ai hiền lành…” (5: 4):
Mối phúc nầy được gợi hứng từ Thánh vịnh 37 trong đó gợi ra số phận khác nhau của người hiền lành với quân gian ác:
“Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn,
đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn.
Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp
và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37: 10-11).

“Đất Hứa” là đất Ca-na-an. Chủ đề nầy vang vọng lên đến lời Thiên Chúa hứa với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15: 7; 28: 4), được khai triển cách phong phú trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 1: 8, 39; 4: 1, 5, 14…), nhưng mang lấy sắc thái cánh chung trong sách I-sai-a (Is 57: 13; 60: 21; 65: 9), và sẽ vang dội trong sách Khải Huyền của thánh Gioan trong đó cốt là thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời (Kh 21: 2). Trong Tin Mừng Mát-thêu, “Đất Hứa” không còn là đất Ca-na-an nữa, nhưng mang một ý nghĩa biểu tượng và thiên sai như trong các mối phúc khác. Chủ đề “thừa hưởng” thường trở lại trong Tân Ước: chung chung, người ta thích “thừa hưởng Nước Trời” (Mt 25: 34; 1Cr 6: 9-10…) “thừa hưởng cuộc sống đời đời” (Mt 19: 29; Mc 10: 27; Lc 10: 25…) hơn cách nói truyền thống: “thừa hưởng đất hứa làm gia nghiệp”.

Đức tính hiền lành được gợi lên là một sự hiền lành không nhu nhược: đó cũng là sự hiền lành của Đức Ki-tô được thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhiều lần: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11: 29). Trong chương 12 của mình, thánh Mát-thêu nhắc lại cung cách hiền lành của “Người Tôi Trung” được hiện thực nơi Đức Giê-su (Mt 12: 18-21).

3. “Phúc thay ai sầu khổ…” (5: 5):
Đây là Mối Phúc mâu thuẫn nhất trong các mối phúc, nhưng cũng mang chiều kích thiên sai nhất. Kinh qua tất cả những thử thách của mình, Ít-ra-en đã luôn luôn trông chờ được Thiên Chúa ủi an. Trong truyền thống Do thái, Đấng Thiên Sai phải đến được gọi là “niềm an ủi của Ít-ra-en”. Trong Tin Mừng Lu-ca, cụ già Si-mê-ôn cũng mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en” (Lc 2: 25).

Không ai có thể chối cải, trong các sách Tin Mừng Đức Giê-su là Đấng an ủi những người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, những người bị khai trừ: Ngài chữa lành, nâng dậy, phục sinh họ: “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Cuối cùng, Ngài dâng hiến cho những ai sầu khổ một niềm ủi an tuyệt mức khi chính Ngài dự phần vào những cơn hấp hối khủng khiếp của cái chết.

Ngài không đề nghị hủy bỏ đau khổ, nhưng rút ra từ đó một giá trị vượt qua nó, nâng cao nó và biến nó thành nguồn mạch của niềm vui. Niềm vui hiện tại – khó đạt được – được bổ túc bởi viễn cảnh của niềm an ủi tương lai trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3).

Tuy nhiên, không nên ngộ nhận viễn cảnh của thánh Mát-thêu: tác giả Tin Mừng nầy rất quan tâm đến chiều kích tinh thần của các Mối Phúc. Thánh ký chắc chắn chủ yếu nhắm đến nỗi sầu muộn của các tín hữu đối diện với thực tại trong đó thế lực sự ác chiến thắng trên những ý định của Thiên Chúa. Trên hết, Đức Giê-su hoàn lại niềm hy vọng cho những người công chính và bảo đảm cho họ sự chiến thắng tối hậu trên sự ác và sự chết.

4. “Phúc thay ai khát khao nên người công chính…” (5: 6):
Thánh Lu-ca viết:
“Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thỏa” (Lc 6: 21).

Theo thánh Lu-ca, sẽ có một đảo lộn về những hoàn cảnh trong Nước Thiên Chúa:
“Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1: 53).

Thánh Mát-thêu, như trước đây, tinh thần hóa mối phúc nầy: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính”. “Đức công chính” mà Đức Giê-su công bố chất nặng lịch sử Kinh Thánh. Người công chính trong Cựu Ước (như ông Nô-ê, ông Áp-ra-ham…) và trong Tin Mừng (như cụ già Si-mê-ôn, thánh Giu-se, vân vân) là người một lòng một dạ với Thiên Chúa, cách hành xử của họ luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa; đó là một người đạo hạnh hướng đến lý tưởng hoàn thiện. Đức “công chính” chính là lý tưởng nầy. Vì thế, “thánh thiện” là từ thích hợp nhất. Đức Giê-su định vị đức công chính nầy như tiếp nối và vượt qua đức công chính của Lề Luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng vào Nước Trời” (Mt 5: 20).
“Đức công chính” nầy là nhân đức siêu việt vốn nội tại trong cõi thâm sâu của đời sống. Những ai hết lòng hết dạ khát khao nhân đức nầy, sẽ được mãn nguyện– trên bình diện tinh thần.

5. “Phúc thay ai xót thương người…” (5: 7):
Trong Cựu Ước, lòng xót thương thường được liên kết với công bình (theo nghĩa pháp lý). Quả thật, lòng xót thương là nhân đức cho phép tình yêu và công bình được gắn bó với nhau; nó là một khía cạnh của tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đặc biệt đối với tội nhân: vì công bình, Ngài phải trừng phạt tội nhân trong một thời gian có hạn, nhưng vì lòng thương xót, Ngài tha thứ vô giới hạn. Ít-ra-en đã thụ hưởng tấm lòng nhân hậu nầy nhiều lần trong suốt lịch sử của mình và đã ca ngợi Đức Chúa là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông” (Xh 34: 6-7).

Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su khai triển mối phúc nầy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ…Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 36-38).

6. “Phúc thay ai có tâm hồn thanh sạch…” (5: 8):
Kiểu nói: “tâm hồn thanh sạch”, là thành ngữ Kinh Thánh đối lập với sự thanh sạch nghi thức, hoàn toàn bên ngoài, không thể mang lại sự thanh sạch trong tâm hồn.

Các Thánh Vịnh ca ngợi những người có tâm hồn thanh sạch như sau:
“Ai được lên núi Chúa?
Ai được ở trong đền thánh của Người?
Đó là kẻ tay sạch lòng thanh”,
chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối” (Tv 24: 3-4).
“Thiên Chúa nhân hậu biết dường nào với nhà Ít-ra-en
với những kẻ có lòng trong sạch!” (Tv 73: 1).

Trong lời cầu nguyện của mình, người tín hữu cầu xin Thiên Chúa:
“Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng
đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy” (Tv 51: 12)

“Tâm hồn” (“tấm lòng”) theo tiếng Híp-ri chỉ chiều sâu thẳm của con người. Chúa Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy vì nó nêu rõ nét đặc trưng của chiều kích nội tâm hóa luật luân lý. Sau nầy, Ngài quở trách những người Pha-ri-sêu chỉ “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những gian ác” (Mt 9: 6; 23: 25).

7. “Phúc thay ai xây dựng hòa bình…” (5: 9):
Mối phúc nầy mang đậm chiều kích rất thiên sai. “Vị vua công chính” tương lai đã được loan báo là “Hoàng Tử Bình An” (Is 9: 6.). Thật vậy, trong Cựu Ước Hòa Bình và Công Lý được giao duyên với nhau: không thể có hòa bình đích thực nếu không có công lý. Mối phúc nầy gởi đến con người để mời gọi họ hãy làm cho công lý ngự trị giữa họ.

Theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li-a phải tái xuất hiện để chuẩn bị cho việc Đấng Thiên Sai ngự đến qua sứ mạng hòa giải: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi… Nó sẽ đưa tấm lòng cha ông trở lại với con cháu, và đưa tấm lòng con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3: 23-24).

Ngay trước thời Đức Ki-tô, các kinh sư đã đề ra những cử chỉ hòa giải trong gia đình, giữa bà con láng giềng… Đức Giê-su đòi hỏi phải hòa giải ngay cả trước khi dâng hy lễ lên Thiên Chúa: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5: 24).

Chúa Giê-su đã để lại cho các Tông Đồ của Ngài “Bình An của Ngài”, bình an nầy được định vị trong dòng chảy nối tiếp của tình yêu. Theo bước chân của Ngài, những người kiến tạo hòa bình sẽ được gọi “con Thiên Chúa” như Ngài.

8. “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính…” (5: 10):
Kiểu nói: “Sống công chính”, tóm tắt toàn bộ Bát Phúc. Chính thái độ sống này gây nên sự chống đối, bắt bớ bởi lẽ nó đã trình bày một Nước mà những ai ưa thích bạo lực, thống trị đều không thể chấp nhận được. Phúc thay những ai là nạn nhân của những áp bức, mà vẫn kiên cường một lòng một dạ với Nước ấy!.

Mối Phúc thứ nhất và Mối Phúc thứ tám loan báo Nước Trời hiện diện rồi: “Vì Nước Trời của họ” (5: 3 và 10), trong khi sáu Mối Phúc còn lại, nằm ở giữa thể loại đóng khung nầy, vẫn còn là lời hứa trong tương lai: “Vì họ sẽ được…”. Sự căng thẳng giữa thực hiện và lời hứa, giữa hiện tại và tương lai nầy xuất hiện ở đầu và ở cuối; ở giữa lòng của sự thành tựu này, tính chất vừa tuyệt đối vừa lịch sử của Nước Trời nầy đang được trương rộng ra trên trần thế ở nơi con người của Đức Giê-su. Sự căng thẳng nầy bày tỏ điều mà chúng ta gọi tính chất “cánh chung” của Nước Trời.

9. “Phúc thay anh em…” (5: 11-12):
Ở câu 11, các Mối Phúc đang từ ngôi thứ ba số ít: “Phúc thay ai”, đột nhiên chuyển sang ngôi thứ hai số nhiều: “Phúc thay anh em”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc thứ tám và Mối Phúc thứ chín đều ca ngợi những người bị bách hại. Mối Phúc thứ tám mang chiều kích phổ quát, được gởi đến toàn thể nhân loại: “Phúc thay ai”, trong khi Mối Phúc thứ chín được ngỏ lời trực tiếp với các môn đệ: “Phúc thay anh em. Mối Phúc thứ chín hiện tại hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh cụ thể của các môn đệ Đức Giê-su như chuyển tiếp từ lý tưởng được đề nghị: “vì sống công chính” đến thực tại cụ thể được cảm thấy và được sống: “vì Thầy”. Ở vào giây phút các môn đệ bị bách hại và bị giết chết, nếu họ chấp nhận đặt mối liên hệ trực tiếp với Đấng công bố những mối phúc nầy, họ có thể khám phá rằng các Mối Phúc nầy được thành tựu ở nơi họ. Như vậy, Mối Phúc thứ chín thăng hoa những mối phúc khác.

Vào giây phút mà người môn đệ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, người ấy nhận thức rằng Nước Trời thực sự đã đến. Cũng thế, phần thưởng lớn lao dành cho họ là ở trên trời (5: 12), phần thưởng nầy, nói một cách chính xác, không bất cứ cái gì khác ngoài hiện thực hóa sự thành tựu mà Đức Giê-su mang đến, Đấng dẫn đưa họ vào “Nước Trời”, nghĩa là, vào thực tại của Chúa Cha ở trên trời. Ai khám phá ở nơi những đau khổ mà mình phải chịu vì Đức Ki-tô là hạnh phúc của “người con chí ái”, người ấy bắt đầu bày tỏ cho những người khác sự hiện diện tại thế nầy của Chúa Cha, Đấng ở trên trời. Các nhà thần học nhấn mạnh tính chất Ki-tô học của Mối Phúc thứ chín nầy: ai dám hứa phần thưởng Nước Trời cho những người phải chịu đau khổ “vì mình”, nếu không là Đấng có thể sánh ngang bằng với Chúa Cha?

Chúa Giê-su đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ biết những bách hại mà họ sẽ phải chịu. Vào lúc thánh Mát-thêu soạn thảo Tin Mừng của mình, những lời báo trước nầy đã trở thành những thực tại khắc nghiệt. Giáo Hội Pa-lét-tin chịu những cuộc công kích liên tục từ phía những người Do thái nhiệt thành với Luật cũ, họ xem những người cải đạo Ki-tô như những kẻ bội giáo. Rồi, thánh Tê-pha-nô bị một đám đông giận dữ ném đá; thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan Tông Đồ, bị xử trảm vào năm 44; thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và những người đồng hành của họ bị truy đuổi, đánh đập, giam tù…Tiếp đó là những cuộc bách hại từ phía chính quyền dân sự Rô-ma. Nhưng sách Công Vụ nói với chúng ta rằng các Tông Đồ, dù bị bách hại như thế, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Ki-tô” (Cv 5: 41).
Tác giả bài viết: Inhatio Hồ Thông
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc