banner_nha dong

Cam Hòa – Cam Lâm – Khánh Hòa – Đt 0258 3863020 – Email: websitemtgnt@gmail.com

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. NĂM C_2016

Đăng lúc: Thứ năm - 21/04/2016 02:36 - Người đăng bài viết: menthanhgia
CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. NĂM C_2016

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. NĂM C_2016

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_C

Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

——-

 

Mục lục

2. Yêu người như Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống tử tế  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Dấu hiệu nhận biết (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Yêu thương là giới răn mới (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Yêu như Chúa yêu  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Dấu chỉ  (Trầm Thiên Thu)

8. Hãy yêu như lòng dạ thương xót của Thiên Chúa  (Jos. Vinc. Ngọc Biển) 

9. Phù hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

10. Yêu như Chúa đã yêu  (AM. Trần Bình An)

11. Yêu như Chúa yêu-  (Lm. Anthony Trung Thành)

12. Yêu thương như Thầy đã yêu thương  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

13. Chúa Nhật 5 Phục sinh_C (Lm. Antôn)

14. Yêu như Thầy yêu (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

15. Trời mới đất mới (Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ)

16. Bài học thực tế (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

 

 

YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.

Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
  2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
  3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

Về mục lục

.

SỐNG TỬ TẾ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Trong bài phát biểu chia tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đoạn cuối ông nói: “Chúc các đồng chí kỳ này sẽ nghỉ chính sách và tôi cũng chúc cho cả tôi nữa ráng giữ gìn sức khỏe, bởi sức khỏe là quan trọng nhất, đồng thời làm một công dân tốt, đảng viên tốt. Làm sao ráng làm người tử tế, sống tử tế”

Sống tử tế được hiểu là sống tốt từ trong những công việc nhỏ nhặt nhất. Sống tử tế là sống biết người biết ta. Sống cho đáng sống của một nhân cách con người. Sống tử tế là một cuộc sống biết nhận và cũng biết trao ban.

Nhưng giữa dòng đời hôm nay sao sống tử tế khó quá. Người việt ngày xưa sống rất tử tế bên nhau, thế mà hôm nay kiếm sự tử tế khó như lên trời hái sao. Người Việt vẫn trọng “dĩ hòa vi quý” và “chị ngã em nâng”, “tối lửa tắt đèn có nhau”, thế mà hôm nay người Việt rất bộc trực, dễ phản kháng chẳng còn kiêng dè, nhường nhịn và tế nhị với nhau.

Có khi chỉ vì một vài centimet đất lối đi chung người ta có thể đưa nhau ra tòa, vác hung khí hù dọa người hàng xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”. Mượn nhau một lối đi chôn ống cống làm sạch môi trường cũng gào thét thề chết chứ không mở lòng bác ái cho nhau. Ngoài đường xe chen lấn, mạnh ai nấy đi, nơi công cộng thì tự do khạc nhổ, xả rác bừa bãi, cửa quan thi nhau đút lót, sự tử tế cứ mai một dần. . .
Làm người tử tế thật khó! Dầu khó nhưng những ai có lương tri thì vẫn phải “Làm sao ráng làm người tử tế, sống tử tế”. Có làm người tử tế mới biết yêu thương đồng loại, mới biết sống công bằng bác ái với nhau.

Chúa Giê-su trong bữa tiệc ly cũng mong các môn đệ sống tử tế với nhau. Sự tử tế mà Chúa mong muốn chính là sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Bằng lối sống tử tế ấy họ nên chứng nhân cho tin mừng. Họ phải sống đẹp khi đùm bọc, chia sẻ nâng đỡ nhau. Họ phải sống thanh cao không bon chen với danh lợi thú trần gian. Họ còn phải sống đẹp khi dấn thân phục vụ trong yêu thương mà không mong đền đáp.

Tình yêu thương hiệp nhất sẽ giúp họ vượt qua những giông tố cuộc đời. Tình yêu thương hiệp nhất sẽ giúp họ gắn bó với nhau để cùng nhau xây dựng Giáo hội và loan truyền tình yêu Chúa cho muôn dân. Tình yêu hiệp nhất là cốt lõi của tin mừng và cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Vì “cũng ở điểm này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Ước mong lời di chúc của Chúa được thể hiện nơi mỗi người chúng ta khi biết từ bỏ cái tôi của mình để sống hòa hợp với nhau. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn trong lời nói để xây dựng mà không làm tổn thương đến ai hay làm mất tình hiệp nhất trong Giáo hội. Xin đừng vì cái tôi quá lớn mà phá nát hình ảnh Giáo hội hiệp nhất yêu thương. Và nhất là hãy sống tử tế với nhau trong lời ăn tiếng nói, trong hành động luôn bác ái yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

DẤU HIỆU NHẬN BIẾT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 

Trong giờ phút linh thiêng khi sắp từ giã những người thân yêu để vĩnh viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối gắng chút hơi tàn căn dặn người yêu dấu những điều mà họ cho là quan trọng nhất.

Khi sắp từ giã các môn đệ để bước vào khổ nạn, Chúa Giê-su trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau. Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao nên Người nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”. 

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Nói đến Công giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu cha ông truyền dạy là “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Chúa Giê-su đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người ( x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.

Yêu như Thầy đã yêu có nghĩa là:

– Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

– “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”(Ga 15,15a). Người là Thầy, là Chúa, các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Người. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”(Ga 15,15b).

– Thầy hy sinh quên mình, Thầy hạ mình phục vụ anh em. Thầy yêu những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu thương cả những người thù ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa và Thầy không ngừng tha thứ, muốn mọi người làm hoà với nhau.

– Cả cuộc đời Chúa Giê-su đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Yêu như Thầy đã yêu làm nên nét đẹp của Tin mừng. Nét đẹp ấy có sức lôi cuốn mọi người đến cùng Chúa. Tình yêu ấy thật cao đẹp nên Chúa mời gọi: “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giê-su tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” ( R.Tagore).

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương, bác ái; chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho.

Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả, bằng cấp giả. Giả thật đen xen nhau như cỏ lùng và lúa tốt. Đối với phần đông dân chúng, thì việc phân biệt đâu là thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.

Trong đạo cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nên Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu hiệu đó là lòng yêu thương. Chúa dạy: “người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau.”. Nếu có ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.

Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa thiên đàng. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.

Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư rửa tội, có chữ ký của cha sở và dấu đỏ của giáo xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn phối, cả sổ gia đình công giáo nữa. Vậy mà thánh Phê-rô vẫn khước từ. “Ngài còn đòi gì nữa? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giê-su sao?”

Thánh Phê-rô trả lời: “Con phải mang phù hiệu của người Kitô hữu.”. “Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài?”. “Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao: “người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu.”

Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy. Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì … các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta. Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 31-46)

Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giê-su mà tôi không hề hay biết!

Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân chính và vương quốc thiên đàng không có chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta” (Mt 25,40).

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN MỚI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cuối tháng ba vừa qua, trước khi bị bãi nhiệm, Thủ tướng Việt Nam có lời chia tay với các thành viên chính phủ. Ông cầu chúc cho những người nghỉ hưu có sức khỏe và còn căn căn dặn mọi thành viên : Hãy ráng sống cho tử tế. Lập tức, chủ đề sống tử tế được các trang mạng và báo chí đề cập đến nhiều hơn. Có người cho rằng sau sự nghiệp chính trường, ông đã có đầy đủ mọi thứ, chỉ còn thiếu một điều, đó là sự tử tế. Người khác cho rằng không chỉ riêng cá nhân ông, mà cả xã hội Việt Nam, nhất là trong chốn quan trường, điều đang thiếu trầm trọng nhất đó là sự tử tế đối với nhau. Nhận định đó có lẽ không sai, vì thực tế con người ngày nay sống và cư xử với nhau thiếu tình yêu thương, thiếu sự tử tế và cũng không quan tâm đến việc đối xử tử tế với nhau.

Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống và cư xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng nhân ái trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta :Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 

Chúa Giêsu truyền cho chúng ta giới răn mới này trong bữa tiệc ly, khi Giuđa vừa rời khỏi phòng tiệc. Trong  khung cảnh của bữa tiệc ly, khi Chúa Giêsu sống những giờ phút cuối cùng thật thân thương với các môn đệ, thì Giuđa đã vì tiền mà phản bội lại Thầy, anh đối xử thiếu tử tế với Thầy và với anh em. Trong cuộc sống, tiền bạc có thể biến người ta trở thành kẻ thù của nhau, cư xử độc ác với nhau. Cũng vì tiền bạc, người ta có thể đánh mất sự tử tế phải có trong con người. Giuđa đã đánh mất tình yêu và sự lương thiện trong tâm hồn nên anh đã hành động bất lương và bất nhân như thế.

Chúa Giêsu, dù đối diện với hành động bất nhân của Giuđa, Ngài không phản ứng giận dữ, cũng không muốn các tông đồ có cái nhìn khác về Giuđa, trái lại, Ngài hướng lòng các môn đệ về với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã dùng lời lẽ hết sức thân thương để nói với các môn đệ : Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, …Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.

Gọi là giới răn mới, vì giới răn yêu thương của Chúa Giêsu vượt trội hơn giới răn của Cựu Ước. Giới răn yêu thương của Cựu Ước bị giới hạn trong phạm vi dòng tộc, quốc gia, có ranh giới giữa bạn và thù. Còn giới răn mới của Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu không giới hạn, không biên giới và không còn phân biệt bạn thù, vì tất cả mọi người đều cần được yêu thương và môn đệ của Chúa phải dám yêu thương không giới hạn.

Gọi là giới răn mới, vì giới răn này đòi phải có những con người có tinh thần được đổi mới. Con người cũ là con người bị ảnh hưởng của tội lỗi, của cái tôi và sự ích kỷ. Con người mới là con người đã được Tin Mừng của Chúa Giêsu biến đổi, có một trái tim quảng đại, một tấm lòng chạnh thương mới có thể sống theo luật mới của Chúa.

Chúa Giêsu còn muốn chúng ta : Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Tức là, chúng ta không chỉ yêu thương nhau theo cảm xúc tự nhiên, mà còn phải yêu thương nhau như đã được Chúa yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta không chỉ như tình yêu của cha mẹ dành cho con cái, Ngài còn yêu thương đến nỗi chấp nhận từ bỏ địa vị của mình để đến ở với con người. Ngài cùng chia vui sẻ buồn với thân phận con người chúng ta, sẵn sàng tha thứ khi chúng ta phản bội Ngài. Ngài không kết án khi chúng ta phạm tội, nhưng luôn cho chúng ta có cơ hội để sửa chữa sai lầm. Ngài chạnh thương khi thấy chúng ta bơ vơ đói khổ, đã cúi xuống để yêu thương, phục vụ và rửa chân cho các môn đệ. Sau cùng, Ngài đã chấp nhận chết thay để cho chúng ta được sống. Như thế, yêu như Chúa đã yêu tức là dám sống và hành động yêu thương như chính Chúa Giêsu. Sống yêu thương sẽ là dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ Chúa. Mọi người sẽ nhận ra chúng ta thuộc về Chúa Giêsu khi chúng ta sống yêu thương.

Đón nhận giới răn yêu thương, chúng ta được mời gọi phải thực hành và đem tình yêu thương vào xã hội hôm nay. Xã hội chúng ta đang sống dường như vắng bóng của tình yêu. Những gương sống cao đẹp, nhân ái, tử tế với nhau càng ngày càng khan hiếm. Trái lại, sự ích kỷ, bất công, gian dối và cái ác ngày càng gia tăng và gây đau khổ cho nhiều người. Con người cư xử với nhau thiếu tử tế, nhưng thừa bạo lực ; tình trạng tội ác, giết người xảy ra thường xuyên. Không ở đâu trở nên tồi tệ như tại Việt Nam, người ta sống bần cùng đến độ phải đi ăn cắp con chó ; cũng không ở đâu người ta cư xử với nhau ác như ở Việt Nam, chỉ vì một con chó, kẻ trộm chó bị cả làng kéo ra đánh cho đến chết.

Với một tinh thần mới, các tông đồ đã hăng hái lên đường rao truyền Tin Mừng yêu thương của Chúa cho mọi người, dù phải trải qua biết bao khó khăn, thử thách. Tiếp nối bước chân các Ngài, các tín hữu ngày nay được mời gọi đem tình yêu thương của Chúa đến với những người đau khổ, bất hạnh, bắt đầu từ nơi giáo xóm cho đến các vùng truyền giáo xa xôi. Cần bắt đầu từ những việc nhỏ trong cuộc sống hằng ngày, bằng cách gia tăng vị ngọt của tình yêu vào mọi lời nói, mọi cách cư xử.

Việt Nam đã bị loại ra khỏi danh sách những nơi đáng sống vì lý do người ta không cảm thấy an toàn thoải mái, bầu khí không thân thiện, con người đối xử với nhau thiếu lịch sự văn minh. Nếu đánh giá khách quan, liệu môi trường giáo xứ chúng ta có phải là môi trường đáng sống hay không ?

Nhờ ơn Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở thành con người mới, do đó, chúng ta phải sống và thực hành giới răn mới của Chúa Giêsu là : Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Cuộc sống chạy theo vật chất đang biến con người trở thành ích kỷ. Sự ích kỷ chính là thuốc độc, là khối u ung thư đang từng ngày giết chết tình yêu trong tâm hồn, phá hủy các tương quan giữa con người với nhau. Để sống và thực hành giới răn yêu thương của Chúa, đòi chúng ta phải chấp nhận cắt bỏ khối u ích kỷ này để có thể nghĩ đến và quan tâm tới người khác.

Tình yêu không chỉ dừng lại nơi sự quan tâm, Chúa còn đòi chúng ta bước xa hơn, đó là phải yêu như Chúa đã yêu. Có nghĩa là chúng ta phải dám mở toang tâm hồn, mở rộng đôi tay và mở rộng cửa nhà, để cho tình yêu của mình tuôn tràn đến mọi người một cách quảng đại, không giới hạn, không điều kiện. Hơn nữa, yêu như Chúa yêu có nghĩa là chúng ta phải dám chấp nhận sự thua thiệt về phía mình, dám chấp nhận hy sinh quyền lợi, và nếu cần, hi sinh cả cuộc sống cho những anh chị em chung quanh.

Hãy bắt đầu sống và thực hành giới răn yêu thương từ trong gia đình bằng việc nói với nhau cách bao dung thông cảm hơn, cư xử với nhau tử tế hơn, giàu lòng nhân ái, nhân văn hơn. Tình yêu và sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái thật thiêng liêng. Tuy nhiên, nhiều cha mẹ đã để cho tình cảm này trở nên xuống cấp, vấy bẩn bởi sự so đo tính toán với con cái. Chỉ khi được sống trong tình yêu và hạnh phúc thật, con trẻ mới có thể phát triển một cách quân bình và có một tâm hồn biết yêu thương.

Kế đến, hãy thực thi giới răn yêu thương nơi anh chị em trong gia đình và nơi lối xóm, bằng việc sống với nhau cách quảng đại, liên đới, cư xử với nhau cách văn minh lịch sự. Tiền bạc và quyền lợi có thể dễ dàng phá vỡ tình anh em trong gia đình, tình xóm ngõ. Anh em trong nhà, bà con trong xóm, có thể chỉ vì một lời nói, một chút của cải, vì cách cư xử thiếu tình yêu, thiếu tử tế, thiếu lịch sự có thể làm tổn thương, sứt mẻ  tình anh em và láng giềng. Thực hiện giới răn yêu thương, chúng ta cần làm cho tình anh em gia đình ngày thêm găn bó, tình xóm ngõ ngày thêm bền chặt. Mỗi người cần biết hy sinh lợi ích riêng mình để vun đắp cho lợi ích chung.

Xã hội là môi trường chúng ta phải sống và thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Chúng ta chưa cần làm những việc to lớn, nhưng hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ. Mỗi người hãy góp cho xã hội nhiều nụ cười hơn, nhiều cử chỉ đẹp và nhiều lòng nhân ái hơn. Việc làm yêu thương có sức lan tỏa. Khi chúng ta kiên trì gieo mầm yêu thương mỗi ngày, hoa trái yêu thương sẽ nảy nở trong xã hội này. Hãy gieo thật nhiều hạt mầm nhân ái, quảng đại và thứ tha, xã hội sẽ bớt đi những cái ác. Hãy gieo nhiều hạt mầm yêu thương, công bằng và lương thiện, môi trường sống của xã hội này sẽ trở nên đáng sống hơn.

Xin Chúa Giêsu Phục sinh, biến đổi chúng ta nên con người mới để chúng ta có thể thực hành được giới răn mới của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA YÊU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và gẫm suy về những lời chăng chối của Chúa Chúa Giêsu Kitô ban truyền trước khi Người đi về Trời. Quả thật, nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa, chúng ta phải thực hành điều Chúa truyền dạy trong đời sống : “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

Chúa dạy : “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu thương như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu anh em ?

Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết : “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,9). Chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : “Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy” (Ga 15,9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l’évangile de Jean, n°65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu anh em”, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi : “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Cr 12,25-26). Thật vậy, ai nghe điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương. (Trích bài giảng Tin Mừng Gioan, số 65). Tình yêu vì Chúa.

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi .

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau” (Ga 13,34). Vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

DẤU CHỈ

Trầm Thiên Thu

Có nhiều loại dấu chỉ. Dấu chỉ có thể là điềm báo tốt hoặc xấu (gở). Dấu chỉ bình thường thì thường được gọi là dấu hiệu. Về sức khỏe, dấu chỉ được gọi là triệu chứng – điềm báo xấu về một chứng bệnh nào đó.

Dấu chỉ có ở mọi lĩnh vực: tôn giáo, xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế, giao thông, thời tiết,… kể cả tâm linh. Thấy mây vần vũ, người ta đoán có thể mưa; thấy người khác khóc, người ta biết họ buồn; thấy người khác cười, người ta biết họ vui. Vô vàn dấu hiệu chúng ta thấy hàng ngày.

Cần biết dấu chỉ để chuẩn bị hoặc “chấn chỉnh” điều gì đó. Chúa Giêsu nói về dấu chỉ thời tiết bình thường để nói về dấu chỉ thời đại: “Anh em c ly thí d cây v mà hc hi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chi ny lc thì anh em biết là mùa hè đã đến gn. Cũng vy, khi thy tt c nhng điđó, anh em hãy biết là Con Ngườđã đến gn,  ngay ngoài ca ri (Mt 24:32-33; Mc 13:28-29; Lc 21:30-31).

Thời Cựu Ước, dấu chỉ của giao ước là phép cắt bì (Cv 7:8), dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm là các vầng sáng trên vòm trời (St 1:14), dấu chỉ của một tâm hồn hạnh phúc là nét mặt vui tươi (Hc 13:26), dấu chỉ giữa Thiên Chúa với dân chúng là các ngày sa-bát (Ed 20:12).

Dấu chỉ có thể là các động thái. Chẳng hạn, quỳ là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và cầu xin (Cv 7:50; Cv 9:40; Cv 20:30; Kn 41:43; Et 3:2; Lc 5:8; Lc 22:41), đứng là dấu chỉ kính trọng, đứng còn là tư thế của kẻ sống lại (Kh 7:9; Kh 15:2), là tư thế của những người vượt qua về miền đất hứa (Xh 12:11), là tư thế của những con người tự do (Ga 5:1; Ep 6:1-4), chắp tay hoặc khoanh tay chỉ sự nghiêm trang, kính trọng, đấm ngực chỉ sự khiêm nhường sám hối, dang tay chỉ sự cầu nguyện, làm dấu Thánh Giá là dấu chỉ nhận thức và tuyên xưng đức tin Kitô giáo, thinh lặng là dấu chỉ suy tư, suy niệm hoặc cầu nguyện,… Có nhiều dạng dấu chỉ.

Trình thuật Cv 14:21-26 cho biết về công việc truyền giáo: Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông Phaolô và Banaba trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, khuyên họ giữ vững đức tin và xác định: “Chúng ta phi chu nhiu gian kh mđược vào Nước Thiên Chúa. Lời xác định này cũng nhắc nhở và thức tỉnh mỗi chúng ta hôm nay. Chắc chắn không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà được vào Nước Trời. Không phải Chúa “chơi ép” hoặc hù dọa, mà đó là sự thật minh nhiên, vì Nước Trời là Viên Ngọc Quý Giá Nhất.

Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục. Sau khi ăn chay và cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin. Rồi hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, nơi mà trước đó các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành. Công việc gì cũng có mức độ khó khăn khác nhau, khó có thể nói việc nào khó hoặc dễ hơn việc nào. Chắc chắn công việc truyền giáo còn khó khăn hơn nhiều, rất cần sự kiên trì. Vả lại, việc chúng ta làm thì cứ làm cho tròn bổn phận, kết quả hay không là do Chúa quyết định.

Ai cũng muốn công việc đạt kết quả, không ai muốn thất bại. Nhưng đó là ý muốn của chúng ta, còn ý Chúa có thể khác. Cần tâm niệm là “làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14) và “xin cho ý Chúa được thể hiện” (Cv 21:14). Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thông suốt mọi sự, là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Ngài đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Thất bại có thể là điều xấu đối với chúng ta, nhưng trong cách nhìn của Thiên Chúa, thất bại lại tốt cho chúng ta, ít nhất là Ngài muốn chúng ta không kiêu ngạo vì ỷ mình thành công hơn người khác.

Tác giả Thánh Vịnh đã thành tâm cầu nguyện: “Ly Chúa, muôn loài Chúa dng nên phi dâng li tán t, k hiếu trung phi chúc tng Ngài, nói lên rng: triđi Ngài vinh hin, xưng tng Ngài là Đng quyn năng, đ nhân lođược tường nhng chiến công ca Chúa, và được biết triđi Ngài rc r vinh quang (Tv 145:10-12). Thiên Chúa vĩnh hằng, “triều đại Ngài thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn, Ngài thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm” (Tv 145:13). Vì thế, hãy khôn ngoan mà nhận ra mình hèn yếu để khả dĩ tín thác vào Ngài mà thôi!

Thiên Chúa tốt lành, chính Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ và tặng ban trời mới đất mới cho những ai thành tín. Thánh Gioan kể lại thị kiến: “By gi, tôi thy tri mđt mi, vìtri cũ đt cũ đã biến mt, và bin cũng không còn na. Và tôi thy Thành Thánh là Giêrusalem mi, t tri, t nơi Thiên Chúa mà xung, sn sàng như tân nương trangđiđ đón tân lang (Kh 21:1-2). Tất cả đều mới. Cái gì mới thì lạ. Rất kỳ diệu. Rồi sau đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to từ phía ngai: “Đây là nhà tm Thiên Chúcùng nhân loi, Người s cư ng cùng vi h. H s là dân ca Người, còn chính Người s là Thiên-Chúa--cùng-h. Thiên Chúa s lau sch nước mt h. S không còn s chết; cũng chng còn tang tóc, kêu than và đau kh na, vì nhng điu cũ đãbiến mt (Kh 21:3-4). Rõ ràng. Rạch ròi. Hoàn toàn là sự thật, chắc chắn chứ không chút gì mơ hồ. Rồi Đấng-ngự-trên-ngai còn tuyên phán thêm: “Này đây Ta ĐI MI MI S (Kh 21:5a). Và như vậy, tính xác thực càng được nâng cao hơn nữa!

Trình thuật Ga 13:31-35 cho biết loại dấu chỉ đặc biệt: Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn và quy luật yêu thương tuyệt đối.

Khi Giuđa ra khỏi phòng, Đức Giêsu nói: “Gi đây, Con Ngườđượtôn vinh, và Thiên Chúa cũng đượtôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúđượtôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng s tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sptôn vinh Người. Một câu ngắn mà từ ngữ “tôn vinh” xuất hiện tới 5 lần. Khi nghe Sư Phụ Giêsu nói vậy, có lẽ các đệ tử vui lắm, vì có thể đã đến lúc mình cũng được sống sung sướng nhờ Thầy.

Nhưng không phải như họ tưởng, vì Chúa Giêsu nói tiếp: “Hi anh em là nhng người con bé nh ca Thy, Thy cò vi anh em mít lâu na thôi. Anh em s tìm kiếm Thy; nhưng như Thđã nói vi người Do Thái: Nơi tôđi, các người không th đếđược, bây gi, Thy cũng nói vi anh em như vy. Ui da! Sao vậy nhỉ? Tưởng đâu… Ai dè…! Có lẽ họ bắt đầu lờ mờ hiểu về “sự chẳng lành” nào đó sắp xảy ra… Vâng, nhưng làm sao các đệ tử hiểu được hết ý cao siêu của Thầy, vì họ còn là phàm nhân và đầy mơ ước trần tục, còn Thầy là “người cõi trên” mà!

Cuối cùng, Chúa Giêsu cho họ biết dấu hiệu đặc biệt nhất: “Thy ban cho anh em mtđiu răn mi là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau nhưThđã yêu thương anh em. Mi người s NHN BIT anh em là môđ ca Thy ĐIM này: là anh em có LÒNG YÊU THƯƠNG NHAU. Cũng chỉ một câu ngắn mà chữ “yêu thương” được lặp lại tới 4 lần.

Đạo của Đức Kitô Giêsu đơn giản là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo, điều mà ai cũng cần, tôn giáo nào cũng cần, xã hội nào cũng cần, thể chế nào cũng cần,… Nói chung là AI CŨNG CẦN, mà CẦN thì PHẢI THỰC HIỆN. Hoàn toàn hợp lý, mình muốn có thì phải thể hiện với người khác. Luật Yêu là Khuôn Vàng Thước Ngọc để đo lường trong cuộc sống: “Tt c nhng gì anh em mun người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta (Mt 7:12; Lc 6:31).

Thánh Phaolô đã đúc kết: “Ai yêu người thì đã chu toàn l lut. Yêu thương là chu toàn l lut (Rm 13:8 và 10). Hiền triết Khổng Tử (551–479 trước công nguyên) đã dạy đệ tử: “K s bt dc, vt thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Tương tự, hiền triết Aristotle (384–322 trước công nguyên) cũng dạy:“Đng áđt trên người khác nhng điu mà bn không thích.

Trong Do Thái giáo có hai trường phái đạo đức: Trường phái của Shammai chủ trương khắc khổ, và trường phái của Hilel chủ trương phóng khoáng. Một hôm, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “Thưa thày, tôi mun làm môđthày, nhưng trước hết, xin thày cho tóm gn lut phi gi trong bao lâu tôi còn có thđng trên mt châđ nghe thy ging. Shammai liền đuổi anh ta đi và trao cho một cuốn sách dày về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel nói với anh ta: “Nhng gì anh không thích thì đng làm cho người khác, đó là tóm tt v lut. Anh ta giác ngộ và nhận thấy đó là BÀI HỌC QUÝ GIÁ NHẤT ở đời.

Các dấu chỉ quen thuộc cho biết ai là “người của Thiên Chúa” đã được chính Đức Kitô Giêsu giới thiệu qua Bát Phúc (Mt 5:3-12). Và các dấu chỉ về lòng thương xót được trình bày qua Mười Bốn Mối Thương Người – gồm bảy mối thương về thể lý và bảy mối thương về linh hồn.

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết nhn biết Thánh Ý Ngài qua các du ch ca chính cuđi con, đc bit là các du ch ca thđi, nh đó con kh dĩtuân phc và thi hành đ Thánh Ý Ngài nên trn. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cđ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

 Jos.Vinc. Ngọc Biển

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.

Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.

  1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu

Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8). 

Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay…

Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.

  1. Điểm mới của giới luật yêu thương

Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.

Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.

Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.

Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.

Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?

Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.

Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.

  1. Sống và thi hành giới luật yêu thương

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.

Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.

Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.

Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.

Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!

Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.

Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.

Về mục lục

.

PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU

 Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi sắp từ giã cõi đời, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và tận dụng chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất, đồng thời cũng để trối lại những gì được xem là gia bảo.

Tương tự như thế, khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giê-su trao cho họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.” Rồi Chúa Giê-su trối lại cho các môn đệ yêu dấu phần gia bảo quan trọng nhất, đó là Điều Răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau… ”

Tuy nhiên, Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau bằng thứ tình yêu hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương nhau thật đậm đà nên Ngài nói thêm: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Như thế, tình yêu Chúa Giê-su dành cho các môn đệ phải trở thành chuẩn mực cho tình yêu của các môn đệ đối với nhau.

Rồi Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”

Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân thực lòng, người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giê-su.

Muốn thử vàng, người ta phải dùng đến lửa; muốn biết ai là môn đệ thật của Chúa, người ta phải nại đến tình yêu, đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết anh em là môn đệ (thật) của Thầy, là anh em yêu thương nhau.” Thế thì, nếu ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.

Người môn đệ giả

Có người nằm mơ thấy mình phải lìa bỏ đời nầy sang thế giới bên kia. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.

Vừa gặp thánh Phê-rô, anh liền xuất trình đủ thứ giấy tờ để chứng minh mình là người công giáo, từ chứng thư rửa tội, thêm sức cho đến hôn phối… Anh hy vọng với những chứng từ nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối.

Anh ngạc nhiên hỏi: “Ngài còn đòi gì nữa? Con cũng xin thưa là ngày nào con cũng có đọc kinh lần hạt; con không bỏ lễ chúa nhật bao giờ, không gian tham trộm cắp, không mê muốn vợ chồng người… Bấy nhiêu không đủ để được vào thiên đàng sao?”

Thánh Phê-rô trả lời:

“Thiên đàng chỉ đón nhận những môn đệ thật của Chúa Giê-su. Ai không mang phù hiệu người môn đệ Chúa Giê-su thì không được vào thiên đàng.”

“Phù hiệu nào vậy, thưa Ngài?”

“Thế con không nhớ lời Chúa phán dạy sao: “Người ta căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng thương mến nhau” (Ga 13, 35). Nếu chưa có lòng thương mến nhau thì con chưa phải là người môn đệ thật của Chúa.”
 

Qua dụ ngôn phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy: Ai có lòng yêu thương giúp đỡ người khác, kẻ ấy mới được đón nhận vào thiên đàng.

Tin mừng Mát-thêu thuật lại lời Chúa phán như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.

Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta  (Mt 25, 34-46).

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết dựa vào Lời Chúa dạy để rà soát lại xem mình đã tôn trọng, yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng con vẫn còn là những Ki-tô hữu giả hiệu, chúng con không thuộc vào số những người môn đệ thật của Chúa và trên vương quốc thiên đàng không có chỗ dành cho chúng con.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA ĐÃ YÊU

AM Trần Bình An

Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.

Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ – Rylan – chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.

“Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực”, bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.

Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.

Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.

“Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt (mới 1 tuần tuổi) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé (Rylan) lại có thể … Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống”, Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today)

Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên,“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15) Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.

Yêu như chính mình 

Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại (tha nhân) như chính mình.”(Lv 19, 18) Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.

Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra!” (Ca dao) 

Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn.” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!” (Ca dao)

Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta.” (Ca dao)

Yêu như Chúa đã yêu

Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13, 34) Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế. 

Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ.“Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.

Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn.“Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”(Ga 13, 21) Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai.“Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!” Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng:“Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13, 27) Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 23-25)  

Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo:“Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”(Ga 13, 38)

Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13, 31-32)

Yêu là dấu chỉ Kitô hữu 

Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35) Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.

“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.”(Đường Hy Vọng, số 178)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.

Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA YÊU-

Lm. Anthony Trung Thành

Để nói lên tình yêu thương rộng mở giữa người với người trong xã hội, người Á Đông chúng ta có châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển là anh em). Cha ông của chúng ta cũng dạy: “Thương người như thể thương thân”. Cựu Ước cùng mời gọi: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). Trên đây chỉ là lời những lời mời gọi tình yêu thương theo mối tương quan giữa con người với nhau, mà đỉnh điểm của tình yêu là: Yêu tha nhân như chính mình. Còn nét độc đáo và đặc thù của tình yêu mà Đức Kitô mời gọi chúng ta là: Yêu Như Chúa Yêu. Vậy, làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?

  1. Trước hết, chúng ta tìm hiểu xem Chúa Giêsu yêu thương như thế nào?

1) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu phổ quát.

Ngài yêu thương hết thảy mọi người. Đó là những người tội lỗi, bệnh tật, đói khổ, yếu đuối và bị áp bức…Ngài gặp gỡ chàng thanh niên giàu có và khuyên anh để được sống đời đời: «Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (x. Mc 10, 17-22). Ngài gặp gỡ ông Giakêu thủ lĩnh người thu thuế và giúp ông biết sống công bằng và quảng đại (x. Lc 19,1-10). Ngài gặp gỡ những người nghèo về tinh thần và vật chất và luôn ưu tiên họ hơn. Đó cũng chính là dấu hiệu để nhận ra Ngài. Ngài nói với các môn đệ Gioan rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5-6). Ngài tự đồng hoá mình với những người nghèo hèn, đói khổ đến nỗi ai làm cho những người này là làm cho chính Ngài (x. Mt 11,5-6). Ngài đã ca ngợi bà goá nghèo chỉ bỏ ¼ đồng xu vào hòm tiền nhà thờ và tuyên bố một câu bất hủ: “Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12,43). Khi dân chúng đói khát, Ngài đã mời gọi các Tông đồ “Anh em hãy cho họ ăn đi” (x. Mc 6,34-44). Sứ mạng giải phóng cho người nghèo chính là sứ mạng của Ngài:  “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4, 16-22). Qua những hành động và lời nói của Chúa Giêsu đều thể hiện rõ nét một tình yêu bất biến, tình yêu phổ quát không loại trừ một ai.

2) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tha thứ.

Chúa nói với người phụ nữ ngoại tình: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7,48).  Chúa nói với người bất toại: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mt 9, 2; Mc 2, 5; Lc 5, 20). Ngài tha thứ cho Phêrô (Mt 26, 69-75), cho kẻ trộm lành (x. Lc 23,43), cho những kẻ giết Ngài (x. Lc 23,34)…Ngài đã ban quyền tha tội cho Hội Thánh, khi Ngài nói với các môn đệ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22). Ngài còn thiết lập chức linh mục để thi hành sứ mạng đó mãi cho đến tận thế. Tình yêu của Chúa Giêsu thực sự là tình yêu tha thứ. Ngài luôn luôn ở tư thế cứu thoát chứ không muốn lên án. Chính Chúa Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 17).

3) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh phục vụ.

Vì yêu thương loài người chúng ta, nên Ngài đã hy sinh hạ mình xuống chấp nhận làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô diễn tả: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).

Thật vậy, vì yêu thương loài người nên Ngài chấp nhận sinh ra trong hang đá nghèo hèn lạnh lẽo. Ngài sống âm thầm tại làng quê Nazareth với Thánh Giuse và Đức Maria suốt ba mươi năm. Ngài tiếp tục sống nghèo hèn trong ba năm rao giảng Tin Mừng. Chính Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Ngài đã hy sinh hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-20). Cuối cùng, Ngài bị bắt, đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá không một mảnh vải che thân. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất cho lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13). Không những thế, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn của uống nuôi sống nhân loại chúng ta. Ngài đã yêu thương nhân loại và yêu thương họ cho đến cùng (x. Ga 13,1). Tình yêu của chủ chiên hy sinh vì đàn chiên, đó mới là một tình yêu tròn đầy, một tình yêu hy sinh phục vụ.

  1. Làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?

1) Yêu như Chúa yêu là phải yêu thương mọi người.

Với bản tính tự nhiên, chúng ta thường giới hạn tình yêu nơi những người thân cận: Yêu thương những kẻ thuộc về minh như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em và những người yêu thương chúng ta, những người có thể đền đáp công ơn cho chúng ta. Nhưng để yêu như Chúa, chúng ta không được dừng lại ở đó, chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì ? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao”? (Mt 5,6). Vì vậy, Yêu như Chúa yêu là phải đi xa hơn: Yêu thương hết mọi người; yêu thương những người không có gì để đền đáp cho chúng ta; yêu thương cả những người bất đồng ý kiến; yêu thương những người không yêu thương chúng ta; thậm chí chúng ta cần phải yêu thương những người ghét bỏ chúng ta, bách hại chúng ta. Đó là tình yêu phổ quát, tình yêu không loại trừ một ai.

2) Yêu như Chúa yêu là phải tha thứ lỗi lầm cho anh chị em mình.

Trước hết, tinh thần tha thứ phải được thực hiện ngay trong mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình: Cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em ruột thịt với nhau. Tiếp đó, tha thứ phải được thể hiện giữa các thành viên trong cộng đoàn giáo xứ và mọi người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Ngoài ra, sự tha thứ cũng cần được thể hiện với những người ghét bỏ chúng ta, và thậm chí họ là kẻ thù của chúng ta. Các Thánh đã làm gương cho chúng ta: Thánh Stêphanô đã tha thứ cho Phaolô; Thánh Nữ Maria Goretti đã tha thứ cho chàng thanh niên Alexade; Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tha thứ cho Ali Agca và bao nhiêu tấm gương tha thứ khác.

Nhưng thực tế trong đời sống gia đình và cộng đoàn vẫn còn đó những người sống thiếu tinh thần tha thứ cho nhau. Vì không có sự tha thứ nên xảy ra rất nhiều cảnh đau thương, chết chóc. Mỗi người chúng ta hãy mang tinh thần tha thứ đến với mọi người:“Đem tha thứ vào nơi lăng nhục… Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ” (Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô).

3) Yêu như Chúa yêu là phải biết hy sinh phục vụ.

Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng vì chúng ta. Giờ chúng ta cũng phải hy sinh tính mạng vì người khác. Hy sinh tính mạng là hy sinh những gì thuộc về chúng ta. Vì vậy, chúng ta có thể hy sinh thời gian, sức khoẻ, tiền bạc vì lòng yêu mến tha nhân. Chúng ta thấy điều này nơi gia đình, cộng đoàn giáo xứ và nơi các trung tâm từ thiện.

Trong gia đình: Cha mẹ hy sinh vì con cái; vợ chồng hy sinh cho nhau; người khoẻ hy sinh chăm sóc cho người đau yếu. Trong giáo xứ: Ban Hành Giáo hy sinh để phục vụ cộng đoàn; thầy cô giáo hy sinh để dạy giáo lý cho giới trẻ. Tại các trung tâm bác ái từ thiện, có rất nhiều người tự nguyện hy sinh vì những người bệnh hoạn tật nguyền. Tại những trung tâm đó, các nữ tu và những thiện nguyện viên đang ngày đêm âm thầm hy sinh phục vụ những người ốm đau, bệnh tật. Họ là những tấm gương hy sinh phục vụ, phản ánh phần nào gương hy sinh phục vụ của Đức Kitô.

Nhưng đây đó vẫn còn có những gia đình cơm không lành canh không ngọt, vợ chồng ly tán, con cái bơ vơ. Nhiều cộng đoàn vẫn còn sự chia rẽ, bất hoà, thiếu sự hiệp nhất yêu thương. Đây đó vẫn còn có cảnh chém giết lẫn nhau…Vậy, để không còn có những cảnh đau thương đó xảy ra, mỗi người chúng ta hãy toả sáng tình thương mọi nơi mọi lúc, như William Blake nói : “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình thương”. Đó cũng là cách chúng ta đang làm chứng cho Chúa, vì “Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Bài Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho các môn đệ thân yêu trước khi Người ra đi chịu chết, đồng thời cũng là những lời trăn trối thâm tình nhất. Chính trong bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà ‘điều răn mới’ trở thành đặc biệt quan trọng và sâu sắc.

Không hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết dị ứng với chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng khác là ‘thập điều’ (Decalogue) xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên ngữ. Đối với người công giáo, cũng không biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’ đã trở thành phổ biến và quen tai. “Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một điều buộc phải làm hay cấm không được làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối thượng. Đã là điều răn, thì mọi người ai đều ‘phải’ tuân giữ. Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn bảo’ (nên, hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ hơn. Tôi thiết nghĩ là con người đương đại (đặc biệt giới trẻ hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là răn đe. Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì, luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất hợp lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức; không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc người khác phải yêu mình. Là chúa tể, Ngài chỉ có quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy, phải kính sợ mình mà thôi! Thế thì ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.

Trước hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức Giêsu trong cái giờ phút biệt ly đó là các môn đệ; mà các ông đều là những người Do Thái gốc (xem Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới ‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy thì việc Đức Giêsu đề cập tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu hiệu để lôi cuốn đám thính giả Do Thái lắng nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá quen thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17 trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu 6-21 sách Đệ Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt ‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm quyền tối thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập và dẫn đưa họ vào đất hứa. Mười điều răn hay thập giới có thể được coi như các điều khoản của giao ước dân Do Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng họ. Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân bản và hợp lý, kể cả ba khoản đầu trực tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể khảng định thập giới đích thực là luật yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng, luật sòng phẳng, luật ràng buộc do cam kết của một khế ước giữa hai bên ký kết với nhau. Ngay cả ‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ xuất phát từ đòi hỏi công bằng của Cựu ước: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định như vậy.

Trong bối cảnh đó thì “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” mới là ‘điều răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó vượt xa những đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao kèo xã hội. Nền tảng và nguyên lý của ‘hãy yêu thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã hiến mình chịu chết trên thập giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập một vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo lối diễn tả của của người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay nhận thức được: sự trung thành tuyệt đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái và giầu lòng xót thương, để rồi tự đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một tình yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của cuộc tiễn biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố ‘điều răn’ này! Sắp tới đây, các môn đệ sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt đầu trở thành hiện thực: các ông sẽ được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến cùng, yêu tới độ “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga 4:10).

Nếu thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa là không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu! Những ai đã chứng kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra chẳng có buộc gì cả: nếu anh biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và biết cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại, một công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh thấy mình chưa thể yêu thương người anh em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu hiểu Thập Giá, nơi Thiên Chúa đã yêu và hiến mình cho anh bất chấp con người anh đầy tội lỗi. Gioan đã muốn diễn tả như thế trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất: hoặc biết về tình yêu xót thương của Thiên Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu hiểu được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’, như một định luật hoàn toàn lô-gích hay đúng hơn một chuyển động tất nhiên của cõi lòng, yêu mọi người anh em của mình thôi, cho dầu họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể, là một nghịch lý của niềm tin, bao lâu Thập Giá chưa được chúng ta giương cao trong đời sống.

Do đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc tha thức cho cận nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi đó!

Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa thể yêu các anh em con, thì đơn giản là vì con chưa hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu thương và hiến mình vì con’ tới mức độ nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi cử hành Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ qua cách đó, phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở nên một Linh Mục đích thực, biết yêu mến và tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được điều này trong công tác mục vụ hàng ngày của con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_C

Về mục lục

.

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Lm. GB. Trần Văn Hào

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Điều răn mới.

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“ Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan.

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ ‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận. Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu. Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu.

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp… Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’ là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

Về mục lục

.

TRỜI MỚI ĐẤT MỚI

Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta làm mới tất cả”

“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?

Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”

Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.

Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.

Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.

Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.

Yêu nhau như Thầy yêu anh em

“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.

Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.

Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.

Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian

Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.

Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.

Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?
  2. Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
  3. Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.

Về mục lục

.

BÀI HỌC THỰC TẾ

Lm. Jos. DĐH.

Lời chào cao hơn mâm cỗ. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền, lỗ kiến vỡ đê, tí lửa cháy trời. Đó là những câu tục ngữ, được tiền nhân đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống, nhắn gởi lại cho hậu thế. Có những tài sản cao quý đến độ con cháu luôn trân trọng như “bản di chúc”: tiếng khóc, tiếng cười, hoặc truyền thống sống đức ái của gia tộc. Nếu chưa làm mẹ, mấy ai hiểu lời người xưa : có tát cạn biển đông mới thấu tỏ lòng mẹ. Nếu chưa một lần được gọi là cha, liệu ai hiểu nổi : không trèo qua non thái, sao thấu hiểu được tình cha ? Bao lâu tôi và bạn đã thật khôn lớn, hẳn lời ru năm xưa sẽ vô cùng ý nghĩa :con ơi nhớ lấy câu này, ơn cha nghĩa mẹ, công thầy chớ quên.

Đức Giêsu quý mến học trò cách chân thành không khác gì tình “bằng hữu”, Ngài thực tế bài học yêu thương trong nhóm 12, cụm từ yêu thương ngắn ngủi ấy giá trị hơn “mâm cao cỗ đầy”. Trong yêu thương có sức mạnh nội tại như muối như men, như vị ngọt của tình huynh đệ, tình bè bạn, hiệp thông sống động trong tình Giêsu. Hãy yêu thương nhau, không đơn giản chỉ là mệnh lệnh, đúng hơn phải gọi là quà tặng, vì trong gói quà yêu thương có niềm vui khám phá, có đau khổ hạnh phúc, có tự do đón nhận.

“Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”, mới ở điểm nào ?  hẳn chúng ta phải lưu ý là “như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Mới và thực tế “như Thầy đã yêu” là yêu vô vị lợi, yêu không tính toán, yêu đến cùng. Mới và thực tế còn được hiểu là nguồn gốc yêu thương phát xuất từ Thiên Chúa, phải cảm nhận được tình yêu của Thầy Giêsu, nếu không giữa chúng ta yêu nhau chỉ là ích kỷ, vị lợi.

Thực tế tình yêu nào cũng đưa dẫn con người đến hạnh phúc, nhưng “yêu như Thầy yêu” mang mầu sắc dấn thân phục vụ, là dám hy sinh cho cả đối tượng gian ác. Có những thứ tình cảm mà người ta gọi là tình yêu, có những thứ nước mà người ta gọi là rượu, nghe có vẻ lạ. Thực ra, men để biến nước thành rượu, hay men để nung nấu tình bạn thành tình yêu, luôn cần đến một yếu tố là thời gian. Hãy yêu thương, sẽ chỉ là khẩu hiệu, lý thuyết nếu trong đó thiếu tính thực tế, không bắt nguồn từ tình yêu Giêsu.

Quan niệm thực tế của con người thường dựa vào sự công bằng, có gieo có gặt, bạn yêu tôi, tôi yêu bạn. Tình yêu mà Đức Giêsu đã từng thể hiện, tình yêu đó là vượt qua lẽ công bằng tự nhiên, làm ơn làm phúc cho người xa lạ, yêu thương không mong được đáp đền. Nét đẹp của tình yêu cũng được cha ông chúng ta thực tế với câu ca dao :chẳng thà ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời. Tình yêu thương tự bản chất đã có hy sinh, chín bỏ làm mười, gia đình hòa thuận, nhà nhà an vui.

Trước vẻ đẹp phong phú của tình yêu, Chúa không cần chúng ta phải có đầu óc bách khoa, không cần người ta phải đạo đức nhiệm nhặt như các vị thánh khổ tu. Nhưng Ngài cần các học trò của Ngài biết sống yêu thương : “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Điều tốt nhất cha mẹ có thể làm cho con cái là họ biết yêu thương nhau. Điều thực tế hơn đối với người học trò Giêsu, đó là trái tim của người môn đệ luôn đủ tình yêu của Thầy Giêsu trước các tương quan tha nhân.

Làm sao người Kitô hữu chúng ta áp dụng vào cuộc sống hiện tại này bài học yêu thương của Đức Giêsu, khi mà đầu óc chúng ta trĩu nặng lý sự : có thực mới vực được đạo ? Trong khi Chúa Giêsu không hề phân biệt đối xử giầu nghèo, người xấu xa tội lỗi, người thánh thiện tốt lành, Ngài vẫn hết mực yêu thương. Tính ích kỷ nhỏ nhoi thường khép lòng người ta lại, để rồi hận thù, chia rẽ vây hãm các tương quan của với ta ! Bài học thực tế hơn cả đó là từng giây phút trong đời, chúng ta hãy cậy nhờ vào chuẩn mực của tình yêu Giêsu, một tình yêu mà trong anh chị em mình luôn có hình ảnh Đức Giêsu yêu thương.

Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu Giêsu, đón nhận tinh thần mới trong gói quà yêu thương để chia sẽ cho nhau, hẳn là mỗi người chúng ta đang thực thi đức ái Kitô. Nếu cha ông chúng ta nói rằng : hoa không xinh đẹp lấy đâu ra kẻ ngắm nhìn ? Tình không chín mùi, mấy ai dám bước lên xe hoa ? Vâng, người môn đệ của Đức Kitô không thể thiếu đức yêu thương trong tâm hồn, không thể cư xử có tình Chúa tình người trong các tương quan, khi chúng ta hiểu biết và sống đức yêu thương dựa trên môi miệng, Xin tình yêu Giêsu mãi mãi là sức mạnh, là ơn ban trước tinh thần quảng đại dấn thân, mỗi chúng ta đều là môn đệ của Ngài. Amen.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc