CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA

CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA
Lời Chúa: Is 42: 1-4, 6-7; Cv 10: 34-38; Mc 1, 7 - 11

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giê-su chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su Biến Hình.

Is 42: 1-4, 6-7
Bản văn I-sai-a tường thuật cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật bí ẩn mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.

Cv 10: 34-38
Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phê-rô ngỏ lời với ông Co-nê-li-ô, viên quan bách quản Rô-ma, và toàn thể gia quyến của ông. Họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Ki-tô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.

Mc 1: 7-11
Thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.

 BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)
Bản văn nầy gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, để là ánh sáng chiếu soi muôn dân.

Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 tCn), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ nầy được trích từ hai phân đoạn: trong phân đoạn thứ nhất (42: 1-4), Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; trong phân đoạn thứ hai (42: 6-7), Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.

Nhân vật nầy là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.

1. Vua Ba tư là Ky-rô:
 “Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.

Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mõi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Ky-rô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.

Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Ky-rô:
“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng
đi mở đường cho nền công chính?
….
Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,
cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.
Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn

Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
….
Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,
và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).
Chương 45 còn rõ ràng hơn:
“Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô
-Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa.
….
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,
….
Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).

Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát”“tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.

2. Dân Chúa chọn:
Sau nầy, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài cho muôn dân nước. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Ngài đã “nắm tay” dân nhỏ bé này. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống trọn niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

3. Đấng Mê-si-a:
Việc “Người Tôi Trung” nầy được nhận dạng ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự phong phú của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp nầy được công bố vào trong những giờ phút nghiêm trọng.

Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị thiêu hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ.

Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư về Người Tôi Trung). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, không dính dáng gì đến một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tinh thần.

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu trích dẫn sấm ngôn I-sai-a nầy (x. Mt 12: 18-21) để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.
Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh nầy mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua phép cắt bì của Do thái giáo.

1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó:
Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được các thị kiến ngôn sứ mặc khải: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.

Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần thúc ép đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.

2. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội:
Thánh Phê-rô đến nhà viên quan Rô-ma. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được ghi trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo.

Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay.

3. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ:
“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phê-rô, vốn là một người Do thái, chỉ nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn; nay, vị lãnh tụ của Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh nầy.

Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên” của Do thái giáo, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận. Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên nầy: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an giữa dân Do thái và muôn dân. Bình an nầy được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.

4. Quyền năng của Phép Rửa Ki-tô giáo:
Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn cuộc đời của Chúa Giê-su, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Gio-đan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc”“chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.

TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)
Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan (1: 7-8) và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển (1: 9-11). Hai hoạt cảnh nầy tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.

1. Phép rửa trong nước:
Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn lãnh nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng các tội nhân. Cách hành xử nầy là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu.
Chính Đức Giê-su đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”, “nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.

Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm của thập giá.

2. Phép rửa trong Thánh Thần:
Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh nầy, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định nầy về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trong thời gian này, dân Do thái cất lên lời khẩn nguyện thiết tha: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà đến”. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại. 

Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Vào ngày Ngài chịu phép rửa của ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”.

Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giê-su khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ.

Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy, xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê; từ nước của Biển Đỏ, một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.

3. Ba cuộc tấn phong đồng lúc:
Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giê-su lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:
-“Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”: Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách thức người Do thái bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).

Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “Con yêu quý” ở nơi người Con Một, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.

-“Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”: Chẳng ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,
Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).
Vị Vua-Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).
-“Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”: Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I).

4. Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa:
Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép Rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).

Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng nầy tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều nầy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.

Tác giả bài viết: Inhatio Hồ Thông