CHÚA NHẬT LỄ LÁ

CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Lời Chúa: Is 50: 4-7; Pl 2: 6-11; Mc 14: 1-15: 47

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta khởi đầu tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô thuộc chu trình Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật năm B.

Is 50: 4-7
Trước tiên, ngôn sứ I-sai-a hé mở cho chúng ta Người Công Chính chịu đau khổ, dưới dung mạo Người Tôi Trung của Đức Chúa. Dù bị nhạo báng, bị lăng nhục, nhưng Người Tôi Trung không hề đả kích mà lại đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Pl 2: 6-11
Tiếp đó, chúng ta suy niệm mầu nhiệm “tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su” mà thánh Phao-lô phác họa trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê dưới hình thức một bài thánh thi Ki-tô học. Đây là bằng chứng quý báu về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.

Mc 14: 1-15: 47
Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký nhắc cho chúng ta nhớ rằng qua con đường thương khó, Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)
Với đoạn trích nầy, chúng ta dự phần vào niềm xác tín của ngôn sứ I-sai-a. Chính vì thường hằng chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, hằng ngày gẫm suy Lời Chúa, nên ông chẳng những không “cưỡng kháng lại. cũng chẳng tìm cách tháo lui” sứ mạng Thiên Chúa trao gởi cho mình (50: 5) mà còn “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Vị ngôn sứ đã không nhận được bất cứ lòng biết ơn nào, trái lại chỉ toàn những lời lăng mạ và sỉ nhục. Ông bị đánh đòn, sỉ nhục (giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), chịu những lời mắng nhiếc, phỉ nhổ vào mặt, khinh bỉ đến tột cùng (50: 6).

1. Dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ”:
Dù bị cử xử cách bội bạc như thế, “Người Tôi Trung” đặt trọn niềm tín thác vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “kiên vững không hề nao núng”. Đoạn trích này thuộc bài ca thứ ba trong số bốn bài ca “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.

Dung mạo của “Người Tôi Trung” nầy gợi lên lúc thì dân Ít-ra-en (ngôn sứ I-sai-a đệ nhị thường gọi dân Ít-ra-en “người tôi trung của Đức Chúa”) lúc thì một cá nhân lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Vả lại, hai cách giải thích theo chiều hướng tập thể và theo chiều hướng cá nhân không loại trừ nhau; cả hai đều chồng chéo lên nhau trong nhiều đoạn văn.

Người Tôi Trung nầy hành xử cách dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất: 42: 1-9). Ông được giao phó sứ mạng giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai: 49: 1-7). Ông phải chịu những bách hại và những lăng nhục (bài ca thứ ba: 50: 4-11). Ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư: 52: 13-53: 12).

2. Một sứ điệp mới:
Với dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ”, chúng ta ở một khúc quanh rất quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh thiên sai nhắm đến dung mạo một vị vua vinh quang, thuộc dòng dõi Đa-vít, đấng sẽ thiết lập một triều đại công lý và hòa bình. Ấy vậy, vào lúc nầy dân Do thái không còn vua, vương triều Đa-vít đã bị nhận chìm vào trong phong ba bảo táp, Đền Thờ bị thiêu hủy, dân thành Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh đời nô lệ và một phần lớn dân thành bị lưu đày.

Đây là thời điểm thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thuở xưa không hề bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a vẫn thuộc dòng dõi Đa-vít), nhưng điều mà những viễn cảnh mới hé mở, chính là sự can thiệp của “một người Thiên Chúa tuyển chọn”, của “một người Đức Chúa xức dầu tấn phong”, đấng nầy sẽ âm thầm hành động, bên ngoài trông có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng cuối cùng sẽ được tôn vinh.

3. Vị ngôn sứ bị lăng nhục:
Ở nơi nhân vật chịu nhục nhã ê chề nầy, phải nhận ra chính vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Được Thiên Chúa trao phó sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh, mệt mỏi chán chường, ông không lẫn tránh sứ mạng phụ bạc nầy; ông cố giúp cho họ hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu, kêu mời họ hoán cải, hứa với họ một cuộc cứu thoát. Ấy vậy, ông vấp phải sự vô tri, ngờ vực và giận dữ của những người đã nếm mùi đắng cay trong một cuộc lưu đày dài lâu.

4. Người Công Chính bị bách hại:
Bên kia dung mạo của vị ngôn sứ hiện lên dung mạo của Người Công Chính thập toàn, bản văn vang lên cung giọng thiên sai. Chính Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài với một thái độ hoàn toàn vâng phục. Cũng chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn khốn khổ. Như vị ngôn sứ vô tội, thay vì biết ơn, Ngài sẽ bị đánh đập, nhục mạ, khổ hình mà “chẳng hổ ngươi và trơ mặt ra như đá vì biết mình sẽ không phải thẹn thùng”.

Bài ca thứ ba nầy cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư bi thương về Người Tôi Trung sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ theo thể văn xuôi có vần có điệu. Ba khổ thơ đầu họa lại ba giai đoạn tự hạ của Đức Giê-su (2: 6-8), trong khi ba khổ thơ còn lại, theo một chiều hướng ngược lại, mô tả ba giai đoạn Thiên Chúa Cha tôn vinh Ngài (2: 9-11).

Trong bức thư chất chứa cung giọng trìu mến thân thương nầy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta gặp thấy những câu thơ tuôn trào cảm xúc từ ngòi bút của thánh nhân. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi giàu hình tượng được dùng trong Phụng Vụ của Giáo Hội tiên khởi? Dù thế nào, bài thánh thi này vẫn là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn cổ xưa nhất về Ki-tô học; nhất là bài thơ nầy mang đến một lời chứng quý báu đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của Tin Mừng Gio-an) về niềm tin nguyên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su.

1. Ba giai đoạn tự hạ (2: 6-8):
1-Vốn dĩ là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô không những từ bỏ Thần Tính, nhưng còn cả vinh quang tự tại ở nơi Ngài (2: 6).
2-Ngài hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn, sống kiếp phàm nhân (2: 7), để chia sẻ tận cùng những cảnh đời cơ cực yếu hèn của con người, ngoại trừ tội lỗi.
3-Ngài còn tự hạ hơn nữa khi vâng lời chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá (2: 8).

2. Ba giai đoạn tôn vinh (2: 9-11):
1-Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài “danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu” (2: 9). Danh hiệu ở đây mang lấy một ý nghĩa tuyệt đối, nghĩa là chỉ dành riêng cho một mình Đức Giê-su.
2-Diễn ngữ: “Cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty”, chỉ toàn thể vũ trụ. Điều nầy muốn nói rằng không chỉ nhân loại, nhưng ngay cả mọi loài thụ tạo đều phải cung kính thờ lạy Ngài (2: 10). Đó cũng là chủ đề được gặp thấy trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên  lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh 5: 13).
3-Sau cùng, người Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su Ki-tô danh hiệu “Chúa” (2: 11) mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Đây là nét đặc trưng lời tuyên xưng đức tin nguyên khởi. Như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Phao-lô trong các thư của ngài nhiều lần nhấn mạnh Thần Tính của Đức Giê-su.

3. Mẫu gương của Đức Giê-su:
Thánh Phao-lô rất mực yêu mến cộng đoàn Phi-líp-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đồng Ki-tô hữu đầu tiên trong miền đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan, thành phố mang tên vua Phi-líp-phê, thân phụ của đại đế A-lê-xan-đê, người đã xâm chiếm thành nầy vào năm 360 trước Công Nguyên.

Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài sống trong sự hiệp nhất và nhất là trong sự khiêm hạ sâu xa. Thánh nhân lấy Đức Ki-tô làm mẫu gương cho họ noi theo.

TIN MỪNG (Mc 14: 1-15, 47)
Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mác-cô dành một vị thế quan trọng cho bài trình thuật về cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta có bằng chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu: biến cố đồi Sọ không là một tình tiết xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đến để tẩy xóa đi, nhưng trái lại là tuyệt đỉnh công trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thập Giá là nơi Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng cứu độ.

Như vậy, các Ki-tô hữu tiên khởi đã đảm nhận sự thách đố của Thập Giá, bất chấp Thập Giá gây nên sự kỳ chướng đối với dân Do thái và dân ngoại, như thánh Phao-lô công bố: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1: 22-25).

Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mác-cô thuật lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su một cách rất giản dị. Thánh Mác-cô đặc biệt soi sáng sự mâu thuẩn của những hoàn cảnh: dù bị nhạo báng, nhục mạ, bị kết án khổ hình ô nhục, nhưng Đức Giê-su vẫn khẳng định quyền tối thượng và tính siêu việt của Ngài với một phẩm chất cao vời. Không một chi tiết bi thương nào được thêm vào cho bài tường thuật đơn giản nầy; những sự kiện tự chúng đủ để nẩy sinh tâm tư tình cảm trong lòng người đọc.

Trong khuôn khổ hạn định của một bài chú giải Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật, tôi không thể chú giải đầy đủ bài Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Các bạn có thể tìm thấy những bài chú giải phong phú về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su, chẳng hạn như bài chú giải của Lm Fx Vũ Phan Long về “cuộc Thương Khó theo thánh Mác-cô”, hay các bài chú giải khác trong các sách chú giải Tin Mừng Mác-cô. Ở đây, tôi chỉ xin ghi nhận cách chung ba tấn thảm kịch được chồng chéo nhau trong các bài Thương Khó của Đức Giê-su theo các sách Tin Mừng:

-Tấn thảm kịch của việc dân Do thái từ chối.
-Tấn thảm kịch của Con Thiên Chúa làm người.
-Tấn thảm kịch của tội lỗi.

1. Tấn thảm kịch của việc dân Do thái từ chối:
Đức Giê-su đã công bố sứ điệp một cách khó khăn, tuy nhiên không nhượng bộ và thỏa hiệp. Ngài đã lật đổ những ý tưởng cố hữu, kết án thái độ câu nệ luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, rồi sự thù hận liên kết với nhau tấn công Ngài. Những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đã từ chối nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự tạo nên. Việc họ quyết tâm thua đủ với Ngài đã dẫn Ngài đến cái chết, nhưng không như họ nghĩ tưởng: Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết. Những lời Thiên Chúa đã hứa với Ít-ra-en nay chuyển sang cho Giáo Hội.

 2. Tấn thảm kịch của Con Thiên Chúa làm người:
Khi đón nhận thân phận làm người, Con Thiên Chúa chấp nhận kiếp người “tử biệt sinh ly”. Vì thế, Ngài muốn đảm nhận cái chết trong tất cả sự khiếp sợ cùng với những đau khổ của nó. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho Ngài phải chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài. Số phận nầy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đây là hành vi yêu thương tột cùng: Đức Giê-su đã muốn chia sẻ số phận của những kẻ bị tra tấn, bị khổ hình, những người tử vì đạo, để tất cả những ai phải chết trong những khốn khổ thậm tệ nhất, và tất cả những ai phải chịu đau đớn về thể xác cũng như tinh thần, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có sự sung mãn: sự sung mãn của sự sống, sự sung mãn của những điều thiện hảo, sự sung mãn của ân sủng.

 3. Tấm thảm kịch của tội lỗi:
Đức Giê-su đã giải thích rõ cái chết của Ngài: “Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Vì nầy là máu Thầy đổ ra để muôn người được tha tội”. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì nếu chúng ta không đặt mình vào trong mầu nhiệm của “ơn Cứu Chuộc”. Theo văn hóa Do thái, “người cứu chuộc” (“gô-en”) là người có trách nhiệm phục hồi nhân phẩm cho thành viên gia đình bị nạn, và chuộc lại nếu người ấy phải lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần. Đó chính là ý nghĩa đặc thù của tước hiệu: “Đấng Cứu Chuộc” được dành cho Đức Giê-su.

Dù được Thánh Kinh soi sáng, biết bao câu hỏi nẩy sinh trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một hành vi gây tổn thương đến Sự Thiện. Ấy vậy, Sự Thiện chính là Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã không muốn con người một mình phải gánh chịu những hậu quả của tội lỗi. Ngài đã sai Con Một Ngài đến mang lấy thân phận tội lỗi của chúng ta và xóa đi những vết nhơ của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Tình yêu cốt là điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4: 10). Từ đó, thánh Gioan căn dặn: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4: 11). Đó là lý do tại sao Tin Mừng Gioan xem Thập Giá là “vinh quang” của Chúa Cha và Chúa Con trong một tình yêu tròn đầy dâng hiến cho nhân loại.

Tác giả bài viết: Inhatio Hồ Thông