KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời Chúa: Is 53: 10-11; Dt 4: 14-16; Mc 10: 35-45

Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.

Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.

Is 53: 10-11
Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.

Dt 4: 14-16
Trong Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.

Mc 10: 35-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.

BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)
Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca nầy mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.

1. Hy lễ của cuộc đời đau khổ (Is 53: 10)
Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:

“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).

“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.

2. Câu trả lời của Đức Chúa (Is 53: 11):
Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lập lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)
Bài Đọc II tiếp tục trích thư gởi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.

Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.

TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)
Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động nầy cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết nầy ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba nầy có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).

1. Phản ứng của các môn đệ:
Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dững dưng vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba nầy, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.

2. Hai anh em nhà Dê-bê-đê:
Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng thánh Phê-rô và thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em nầy cùng với thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.

Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân nầy trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên nầy; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?

3. Được chia sẻ cùng số phận với Ngài:
Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22; vân vân). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén nầy xa con” (14: 36).

Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.

4. Lý tưởng phục vụ:
Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại nầy sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.

Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” nầy, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.

Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ nầy được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.

Tác giả bài viết: L. Inhaxio Hồ Thông