YÊU THƯƠNG ĐỒNG LOẠI

YÊU THƯƠNG ĐỒNG LOẠI
Tìm hiểu lời Chúa: Chúa Nhật XXIII Thường Niên A
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A nêu bật một chủ đề: “yêu thương đồng loại”.
Ed 33: 7-9
Tư tế Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình bên cạnh những người đồng hương bị lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ VI trước Công Nguyên); ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh chị em mình.
Rm 13: 8-10
Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh chị em của mình là Đức Ái.
Mt 18: 15-20
Thánh Mát-thêu trích dẫn những lời của Đức Giê-su mời gọi các Ki-tô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải mất đi mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách khác nhau với thái độ tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33: 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong bởi đế quốc Ba-by-lon. Vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-so bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597, tiếp đó một phần dân cư, kể cả thành phần ưu tú, bị lưu đày. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc vào số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những người lưu đày cho đến khi qua đời vào năm 571 tCn.
Ê-dê-ki-en đã là tư tế trước khi thi hành sứ vụ ngôn sứ. Vì thế, ông mang lấy ở nơi mình cả tinh thần ngôn sứ lẫn tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy minh chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế hợp nhất bất khả phân ly ở nơi ông. Khung cảnh là làng “Tel-Avi” (có nghĩa “đồi lúa mì”) bên bờ sông Cơ-va không xa kinh thành Ba-by-lon, ở đó vị ngôn sứ cùng sống chung với một số người đồng hương bị lưu đày.
Từ những biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra một bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, các bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế hình phạt đã xảy đến cho dân tộc. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ‎ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc thấy trong bản văn trích dẫn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Danh xưng: “con người”, dịch sát từ: “con của con người”, là đặc ngữ sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”. Đặc ngữ nầy thường xuất hiện trong các sấm ngôn của Ê-dê-ki-en với một nét nghĩa tiêu cực: “Ngươi chỉ là một phàm nhân”. Mỗi lần Thiên Chúa giao phó cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào vị thế của một phàm nhân để ông khỏi tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà ông nhận được. Vị ngôn sứ phải xoá mình thành một người vô danh tiểu tốt ở giữa những người đồng hương bị lưu đày của ông.
2. “Người canh gác cho nhà Ít-ra-en”:
Những danh xưng gợi hình như “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ”, được dùng để nói về sứ vụ ngôn sứ thì rất quen thuộc trong Cựu Ước. Danh xưng “người canh gác” gợi lên hình ảnh người lính canh gác trên các tường thành ngỏ hầu nhận biết sự chuyển động của quân thù từ xa mà cảnh báo cho dân thành biết để đề phòng. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố đích danh là “người canh gác cho nhà Ít-ra-en”, ông sẽ là người canh gác ở giữa một đám dân, với tư cách là một phàm nhân như bao nhiêu phàm nhân khác, thậm chí một người lưu đày trong số họ, không hơn không kém.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en phác họa sứ vụ ngôn sứ của mình: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân mật nầy, trong bầu khí thân quen của những cuộc giao tiếp gần gũi giữa người với người cùng chung cảnh khổ này, mà vị ngôn sứ có thể gởi đến cho từng người những lời cảnh báo chất chứa tình nghĩa huynh đệ.
3.Trách nhiệm cá nhân:
Đối với dân Thiên Chúa, “sống” tức là đón nhận những phúc lành của Thiên Chúa và “chết” chính là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo đối với dân Ít-ra-en. Đây là kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy phải giúp anh em mình được hiểu biết ngọn nguồn: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: ‘Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết’, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Vả lại, ông là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, số phận của mỗi người không bất di bất dịch: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải để trở thành một vị thánh. Sứ vụ ngôn sứ của Ê-dê-ki-en được định vị ở nơi hành động nầy mà chính Đức Giê-su sẽ khuyên bảo các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 8-10)
Thánh Phao-lô nhắc cho các Ki-tô hữu nhớ rằng mỗi người phải là những người mắc nợ đối với anh em đồng loại của mình, một món nợ tương thân tương ái không bao giờ trả hết được: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập Giới mời gọi phải tôn trọng phẩm giá của tha nhân và của cải của họ, nhưng không đề cập cách minh nhiên đến bổn phận phải yêu thương đồng loại của mình. Bổn phận yêu thương đồng loại được sách Lê-vi công bố và thánh Phao-lô cũng trích dẫn: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18).
Theo Cựu Ước, anh em đồng loại trước hết những người cùng chung một chủng tộc, một quốc gia, như chữ “đồng bào” của người Việt Nam. Đức Giê-su đã mở rộng tầm mức của huấn lệnh yêu thương đến tất cả mọi thành viên của cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật mới của Đức Ái Ki-tô giáo nữa. Ở đây, thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất, huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ, vì thế huấn lệnh yêu thương đồng loại bất khả phân ly với huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa: chính từ huấn lệnh “yêu mến Thiên Chúa” mà huấn lệnh “yêu thương đồng loại” được khơi nguồn. Việc con người đòi buộc phải yêu thương đồng loại vô giới hạn là theo mẫu gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương nhân loại đến cùng tận. Ở đây, vị sứ đồ nhấn mạnh tình tương thân tương ái, đó là “chu toàn lề luật”.
TIN MỪNG (Mt 18: 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp những huấn lệnh của Đức Giê-su được ngỏ với nhóm Mười Hai, hoa trái đầu mùa của Giáo Hội Ngài. Diễn từ nầy cũng được gọi “diễn từ về Giáo Hội”.
1.Sửa lỗi anh em:
Việc sửa lỗi anh em mà Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài thực hành cho nhau đã được sách Lê-vi đề cập đến: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19: 17). Huấn lệnh nầy đặt ngay sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18), như vậy, việc sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hành tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giê-su phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ:
-Sửa lỗi anh em trong chỗ riêng tư kín đáo, không ai hay biết, nhờ đó người anh em sai phạm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa đổi. Có như vậy, cộng đoàn sẽ không đánh mất người anh em lỗi phạm của mình.
-Nếu lần đầu không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện diện của một hay hai người khôn ngoan, để người anh em nhận ra lỗi phạm của mình cách thấu tình đạt lý. Cả hai biện pháp trên tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở giữa cộng đoàn.
-Nếu lần nầy cũng thất bại nữa, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị loại trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, nghĩa là một người mà người ta tránh mọi giao tiếp.
Qua những biện pháp trên, Đức Giê-su dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Ki-tô hữu – tránh tất cả mọi hình thức loại trừ một thành viên quá khắc khe tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa khi mời gọi noi gương vị mục tử nhân lành trèo non lặn suối ra đi tìm kiếm cho bằng được một con chiên lạc đàn. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi mà những lời khuyên sửa lỗi anh em nầy được đặt ngay liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc” (Mt 18: 12-14). Giáo Hội cũng phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người sai phạm.
2.Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giê-su định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Ki-tô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội của Ngài. Vì thế, Ngài mở rộng quyền năng cho Tông Đồ Đoàn, mà trước đây Ngài đã trao phó cho một mình thánh Phê-rô: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ lập lại quyền năng nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20: 23).
Đức Giê-su thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giê-su đích thân ở giữa họ”. Xem ra Đức Giê-su ám chỉ đến truyền thống kinh sư, theo đó khi hai hay ba người Ít-ra-en họp nhau lại để học hỏi Lề Luật, Thiên Chúa ở với họ. Nhưng ở đây Đức Giê-su đặt mối liên hệ của các Ki-tô hữu với Chúa Cha nhờ và trong lời cầu nguyện. Sự hiện diện của Thiên Chúa được đảm bảo qua sự hiện diện của Ngôi Lời làm người, gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
  

Tác giả bài viết: Lm. Inhaxio Hồ Thông