SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI

SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI
Sức mạnh của lời nói (tiếp theo)
“Lời nói của anh em phải luôn mặn mà dễ thương
để anh em biết đối đáp sao cho phải với mọi người” (Cl 4,6).

 
Nói ít hay ít nói, điều nào tốt hơn? Tùy bản tính mỗi người, nhưng nói ít, rõ ràng, gọn nhẹ vẫn tốt hơn. Nói ít không phải là ít nói, mà là nói vừa đủ cho từng vấn đề.
 
Khổng Tử viết:“Ngôn bất thuận tắc sự bất thành”. Không những “sự bất thành”, mà còn đưa đến cho bản thân những điều bất trắc. Lời nói bất thuận thường gây ra bất đồng, bất ổn, bất hòa, khiến người khác phản ứng cách bất nhã, bất dung. Khi bị chỉ trích hay nhục mạ, người ta càng phản kháng, dễ đưa đến bất nhân, bất nghĩa. Cần xét đến nguyên do và tính chất của lời nói, để ta biết cách tạo nên một sinh khí mới cho mình và những người chung quanh, làm biến chuyển tình thế và thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

1. Lời nói phát xuất từ bên trong
Lời nói thể hiện con người: “Xem quả thì biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người” (Hc 27, 6). Nguyên nhân sâu thẳm của lời nói phát xuất từ bên trong, do tâm ý mà có. Những gì ô nhơ ngoài cửa miệng, là vì đã ô uế trong cõi lòng: “Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống” (Mt 15,18-20).

Lòng đã xấu thì không thể phát ra điều tốt. Chính vì nhận thấy điều gian ác nơi lòng những người Pharisêu, nên Chúa Giêsu không ngần ngại vạch trần con người họ: “Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình ; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình.” (Mt 12,34-35 ).

Do lòng ganh tị và ghen ghét ít nhiều đã “nằm vùng” trong tâm hồn mỗi người, nên ta dễ bị cám dỗ phát ra những lời dèm pha, xuyên tạc, bất chính với một ai đó, làm hư hại thanh danh và đời sống tinh thần của họ. Để có khả năng nói những gì tốt lành và hữu ích, cũng là để xây dựng cho mình một tính cách đẹp hơn, đòi ta phải chỉnh sửa và thanh lọc từ bên trong của lòng mình. Muốn như vậy, phải đào luyện cho mình có được tấm lòng yêu thương. Khi có tấm lòng biết thương yêu và trân trọng mọi người, tự nhiên người ta biết cách phải nói như thế nào cho thích hợp và hiệu quả. Lời nói ẩn chứa yêu thương sẽ được đón nhận nồng hậu với lòng biết ơn, phát sinh tình nghĩa mặn mà.

Khi nặng lời phê phán tiêu cực, ta chứng tỏ mình không có tình thương. Phê phán tiêu cực là một hình thức tìm cách bôi xóa tên người khác để thay thế tên mình. Điều đó nói lên sự đố kỵ và ý đồ muốn chiếm đoạt cách bất công và bất nghĩa. Quả là một cách thế bần tiện, nhưng rồi đó vẫn là điều xảy ra hằng ngày trong đời sống xã hội và cộng đoàn. Lề thói vô tâm này là điều oan trái nhất: “Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót.” (Gc 2, 13).
 
2. Nói xấu, nói tốt
Cơ bản trong tình yêu thương là muốn sự tốt, sự lành cho người khác. Ai cũng muốn thấy mình tốt ở giữa mọi người, nhưng khi nói xấu thì mình không còn tốt. Làm sao ta có thể nói xấu người khác, nếu bên trong ta muốn yêu thương và làm điều tốt cho họ. Sự mâu thuẫn này cho thấy một tâm trạng đang bị phân rẽ. Hơn nữa, khi nói xấu người khác là ta muốn xét đoán họ, và muốn chiếm đoạt quyền hành của Thiên Chúa. Thánh Giacôbê quả quyết: “Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật… Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?”  (Gc 4, 12).

Sách Thánh đã từng lên án: “Đáng nguyền rủa thay kẻ nói xấu.” (Hc 28, 13). Nếu ta không cảnh giác và quyết liệt ngăn chặn bằng mọi cách, thì nói xấu trở thành một căn bệnh mãn tính: “Người đã quen nói những lời nhục mạ thì suốt đời không ai sửa dạy nổi.” (Hc 23, 15).

Nói xấu người khác thường lãnh lấy tai hại cho mình. Hãy nhớ lại câu chuyện Mariam nói xấu ông Môsê (x. Ds 12, 4-15), sau đó Chúa đã phạt Mariam bị cùi và bị liệt giường luôn 7 ngày, nhờ Môsê kêu xin, nên Chúa mới tha thứ.

Khi nói về người khác, nếu nói tốt được cho họ thì hãy nói, nếu không thì hãy kềm giữ miệng lưỡi lại, kẻo danh dự người khác bị hư hao, mà danh nghĩa mình cũng bị hư hại. Nói xấu người khác là muốn chứng tỏ mình tốt, nhưng người tốt thì lại không nói xấu. Ta thường vô tình phóng chiếu tâm trạng ngặt nghèo của mình lên người khác mà không ý thức.

Mọi lời nói cũng chỉ là cách thức phô diễn nội tâm của mình. Khi tâm hồn an vui, hạnh phúc, ta sẽ có những lời tốt đẹp cho người khác. Trái lại, khi bực dọc, bất an, buồn hận, ganh ghét, ta dễ dàng trút lên người khác cho hả dạ. Cách riêng, những lời nói mang tính dối trá, tự đại, ghen tị, càng làm lộ ra tính chất yếu nhược của ta. Đức Phật đã nói rõ như sau:

  “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
   Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
   Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”.

 
3. Nói ít, nói nhiều
Nói ít hay ít nói, điều nào tốt hơn? Tùy bản tính mỗi người, nhưng nói ít, rõ ràng, gọn nhẹ vẫn tốt hơn. Nói ít không phải là ít nói, mà là nói vừa đủ cho từng vấn đề. Đang khi đó, ít nói có nhiều khi khiến người khác khó hiểu mình, hoặc hiểu lầm. Đành rằng, người ta tin ở việc làm chứ không tin ở lời nói, nhưng ít nói quá dễ mất đi sự thông giao và bầu khí cởi mở cần phải có.

Điều đáng ngại là nói nhiều. Sách Châm ngôn cho thấy: “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10, 19). Thật vậy, “Nói hay đến đâu mặc lòng, khi nói nhiều bao giờ cũng đâm ra nói bậy.” (Dumas Père).

Chúng ta có hai tai mà chỉ có một lưỡi, để chúng ta nghe nhiều hơn là nói. Cũng vậy, “Không phải câu hỏi nào cũng đáng được trả lời”. Phải hiểu rõ được tâm ý người muốn hỏi, hỏi chân thành hay muốn khiêu khích, muốn tìm hiểu hay muốn bắt bẻ, hoặc hỏi để mà hỏi thế thôi. Có những câu hỏi mà Chúa Giêsu không hề trả lời (x. Mt 27, 14) ; hoặc trả lời cách khác (x. Ga 8, 4-8) ; hoặc hỏi lại kẻ hỏi Ngài (x. Mt 21, 21-24).

Đan sĩ Isaac Nineveh, người Siria xác quyết như sau: “Bất kỳ ai ham thích nói nhiều, cho dù nói toàn những lời tốt lành đi nữa, thì lòng họ cũng trống rỗng”.

Mục đích của mọi lời nói là đạt đến sự thông giao, để hiểu biết lẫn nhau, để tìm đến chân lý và đưa đến sự hòa hợp trong một cuộc sống an vui. Điều quan trọng và bổ ích không phải là số lượng lời nói, mà là chất lượng của những gì mình nói, đồng thời cũng phải biết cân nhắc liều lượng cho vừa đủ, thích hợp trong từng hoàn cảnh và thích ứng với từng con người.
 
4. Lời khen, tiếng chê
Nhiều khi ta quá dè sẻn và keo kiệt khi phải mở lời động viên, khuyến khích và khen lao người khác, nhưng lại quá lạm dụng và phung phí những lời chê bai, khiến họ dễ sờn lòng nản chí, không còn hứng thú phát triển khả năng và sáng tạo trong công việc. Những kẻ thích chê bai chứng tỏ tâm hồn mình nông cạn và nghèo nàn. Vì nông cạn nên hời hợt trong nhận định, không thấy được cái tốt của người khác để khen; vì nghèo nàn nên chẳng có gì để cho, ngoại trừ những lời rách rưới.

Không phải ta không thể thấy điều hay lẽ phải và những cái sáng giá nơi anh chị em mình, nhưng rồi có khi vì háo danh và đố kỵ đã che mờ mắt ta, không còn thấy hoặc không muốn thấy. Thậm chí, còn phạm vào điều tối kỵ là moi móc chuyện riêng tư quá khứ của người khác để phê bình, chỉ trích... Như vậy chẳng phải là tự hạ bệ và hủy diệt nhân cách của mình sao? 

Ngoài ra, đừng nghĩ rằng, dùng những lời mạnh bạo, gắt gao mà người khác có thể nghe theo ta. Những lời nói càng mạnh bạo, chua cay, gắt gỏng, càng chứng tỏ một lý lẽ yếu đuối và thái độ thấp kém, không có sức thuyết phục. Vì vậy, “Lời nhã nhặn, lời ôn tồn, tựu trung là lời mãnh liệt nhất” (Glodden).

Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta : “Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương...” (Cl 4, 6). Sách Châm ngôn cũng nói: “Câu đáp dịu dàng khiến cơn giận tiêu tan, lời nói khiêu khích làm nổi cơn thịnh nộ” (Cn 15,1).

Đứng trước những lời khen hay tiếng chê, nói tốt hay nói xấu về mình, ta cần phải phải tập cho mình thái độ bình thản : không háo hức vì lời khen, cũng không buồn bực vì tiếng chê ; không vui mừng hớn hở khi nghe người khác nói tốt, mà cũng chẳng buồn phiền nản chí khi người ta nói xấu. Những lời khen, chê, tốt, xấu của người khác cũng chỉ là tương đối thôi. Không phải vì người khác nói tốt mà mình tốt, nói xấu mà mình xấu. Tốt xấu tự chúng ta biết. Đừng để cho sự đàm tiếu hoặc bưng bít của người khác thao túng tâm hồn mình: lời khen dễ làm cho ta bị ảo tưởng ; tiếng chê dễ làm ta bị lầm tưởng.  Hãy coi lời khen như một sự động viên; tiếng chê như một điều cảnh báo.

Tuy nhiên, cũng phải thận trọng suy xét trước lời khen, chê. Khổng Tử nói rằng: “Kẻ khen ta mà khen sai là kẻ thù của ta, kẻ chê ta mà chê đúng là thầy ta”.

Đừng sợ nghe những lời trách móc, cũng đừng ham những lời khen ngợi: “Có những điều trách móc là khen ngợi, và có những điều khen ngợi là phỉ báng” (La Rochefoucauld).

Thật ra, nhiều lúc người ta chê mình cũng đúng, và nói xấu mình cũng đáng. Bản thân mình vẫn có những cái yếu kém, chứ đâu phải thần thánh gì. Vì thế, tất cả mọi giọng điệu của người khác đều phải được đón nhận và thanh lọc từ phía mình. Tuyệt đối không nên phát sinh những phản ứng tiêu cực, vì như vậy là lựa chọn một thái độ thấp kém. Hãy xem những lời lẽ gay gắt, nặng nề, như một thách đố để vượt qua chính mình. Đó mới là thái độ chân chính của con người biết tự trọng, và tôn trọng những giá trị bản thân, như một tiếng gọi vươn lên khỏi những tầm thường.
 
5. Kẻ nói, người nghe
“Kẻ nói tức là gieo, kẻ nghe tức là gặt” (Plutaroue). Gieo thì phải biết mình gieo cái gì, giống tốt hay giống xấu. Gặt cũng phải biết mình gặt cái gì, gặt cỏ hay gặt lúa? Biết cái xấu mà vẫn gieo là hạng ác nhân, biết cỏ mà vẫn gặt là người dại dột.

Sự cố ý gieo tin độc địa của người nói, và sự ham thích những điều càn dở của người nghe, là một sự đồng tình và đồng lõa với sự dữ, tạo thêm sự hỗn loạn trong đời sống con người. Đang khi Chúa muốn qui tụ và hợp nhất mọi người, thì lại có những hạng người gây chia rẽ, đó là những người “sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí” (Gđ 1, 19). Đang khi Chúa muốn ngọn lửa tình yêu mang xuống từ trời được cháy lên, thì lại có những người tệ rạc hùa nhau dập tắt, đó là những người đã quen sống theo tác động của ác thần.

Khi nói về người khác thì cũng là một cách nói về mình, một cách phơi trần bản thân mình. Mọi cái trong thâm tâm đều được hiển lộ trong lời nói qua ngôn từ, giọng điệu, bộ dạng, kiểu cách, cho người khác một đánh giá khá chính xác về tâm hồn mình. Dĩ nhiên cũng có những tay “cáo già” có thể lòe bịp và qua mắt được thiên hạ, nhưng rồi thời gian vẫn là phương cách hữu hiệu để nắm bắt những điều cơ bản nơi một con người.  

Khi nói, cũng phải biết mình đang nói với ai, nói về ai, đáng nói hay không. Đức Khổng Tử khuyên rằng: “Khả dữ ngôn nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân. Bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn” (Người nào đáng nói mà mình không nói thì mất người. Người nào không đáng nói mà mình lại nói thì mất lời).

Mất cái nào cũng đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn cả là mất chính mình, khi nói những điều không cần nói, những cái không nên nói và không được phép nói, hoặc nói không đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, đúng người. Sách Châm Ngôn viết rằng: “Lời nói ra đúng lúc đúng thời khác chi táo vàng trên đĩa bạc chạm trổ” (Cn 25, 11).

Người nghe cũng vậy, phải rất thận trọng, không phải cái gì cũng nghe, và biết mình đang nghe cái gì. Ta chỉ nghe những gì đáng nghe và loại bỏ những gì không cần nghe. Nghe điều gì, bao giờ chúng ta cũng phải xét lại, không thể hùa theo dư luận hay đồng tình theo đám đông, cũng không xu hướng theo những người có thế giá. “Thế giá” nhiều khi cũng chỉ là “dàn giá” bề ngoài. Phải để cho mình luôn có sự cân nhắc và phân định thực hư. Hơn nữa, ta phải lắng nghe bằng cả lý trí và con tim chứ không chỉ bằng lỗ tai. Lỗ tai chỉ là đường vào, còn sự thật thế nào thì phải để đôi mắt kiểm chứng, lý trí sàng lọc, và con tim cảm nhận một cách trung thực.

Có những người nói rất hay, nhưng hãy coi chừng! Khổng Tử viết: “Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức” (Người có đức ắt có tài ngôn ngữ, người có tài ngôn ngữ chưa chắc là có đức).

Trong quan hệ với mọi người, dù là người thân thích đi nữa, thì nghe không bao giờ đi liền với tin, nhập nhằng hai điều này thành một dễ thành kẻ dại dột, dễ bị lợi dụng. Đành rằng, sống với nhau thì phải tin nhau, nhưng không có nghĩa là nhắm mắt tin hết mọi sự, vì tâm hồn con người dễ bị giao động và nhiều khi tâm lý biến chuyển rất phức tạp. Người khác nói cho ta nghe sự thật, nhưng nhiều khi sự thật đã bị bóp méo ít nhiều, đã bị thổi phồng hoặc co rút lại do cảm xúc chủ quan hay thành kiến có sẵn. Đó là chưa nói đến chuyện bịa tạc hay suy diễn từ thái độ của những người mình không ưa.

Hơn nữa, để hiểu sâu xa điều người khác nói, không phải chỉ hiểu ngôn từ, lý lẽ hay biện luận của họ, mà phải hiểu tâm ý của họ. Những kẻ gian trá thì thường lại rất khôn ranh trong những điều họ nói, để dụ dỗ hay lôi kéo ta về phía họ, và luôn có những cái bẫy ngầm làm cho người nghe dễ mắc vào. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng bị giăng bẫy qua những lời đạo đức và ngon ngọt của đối phương (x. Mt 22, 19-22 ; Lc 11, 54).

Thánh Phaolô cũng cảnh giác chúng ta như sau: “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô.” (Cl 2, 8).

Có điều oan khiên là nhiều khi lời nói mưu mô, tà ý và vô tâm của người khác lại phù hợp với những định kiến và dục vọng của lòng mình, nên ta không còn khả năng kiểm chứng nữa, thậm chí thêm cuồng tín, và những đối tượng bị nói đến lại càng hứng chịu bất công một cách nghiệt ngã hơn. 
 
6. Nhìn về Chúa Giêsu
Những ai phải hứng chịu những bất công do những lời nói xấu xa của người khác, thì “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn không phải hổ ngươi bẽ mặt” (Tv 34, 6). Hãy nhìn về Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng phải chịu biết bao lời sỉ nhục, nguyền rủa và vu khống của con người. Chúa còn như vậy nữa, huống chi chúng ta. Điều đó cho thấy sự tệ rạc của con người nhân loại chúng ta trong cách cư xử với nhau. Nhưng rồi trên thập giá, Chúa vẫn nói lời yêu thương tha thứ.

Vì thế, khi phải chịu những nỗi oan khiên, đắng cay do lời nói người khác gây ra, hãy nhớ là Chúa đã chịu thay cho ta ,và đang cùng chịu với chúng ta, để khi phải nói, ta cũng nói lời yêu thương tha thứ cho mọi người như Chúa trên thập giá. Cũng đừng quên rằng, bản thân ta vẫn luôn mỏng giòn và yếu đuối, nên có nhiều khi người khác phải chịu những lời thóa mạ của ta hơn là ta chịu vì họ. Vì thế, bù qua sớt lại cũng khó mà cân lượng.

Tóm lại, hãy nên giống như Chúa Giêsu, bằng cách đào luyện cho mình khả năng biết dùng lời nói để làm dịu nhẹ những cơn giận dữ, để tha thứ cho những ai xúc phạm, để cảm thông với ai lầm lỗi, để an ủi những ai sầu khổ, để nâng cao tinh thần người yếu đuối, để khen thưởng người thành công, để dạy bảo người non kém. Mọi cách thế của lời nói phải được bày tỏ bằng thái độ chân thành, khiêm tốn và tình yêu thương nồng hậu.
 
Lời nguyện
Lạy Chúa, chỉ khi nào con biết dùng những lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung để đem lại an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời dám để cho người khác trổi vượt hơn con thì tâm hồn con mới thực sự trong sáng và cao đẹp.

Khi biết dùng những lời lẽ tốt lành con mới biết mình là người sống trong Chúa và Chúa sống trong con.
Xin cho con biết tha thiết sống hiệp nhất với Chúa và khao khát lắng nghe tiếng Chúa nói trong thâm tâm con, để tiếng Chúa nói trong thâm tâm trở thành lời con nói ra ngoài miệng.

Đó chính là những lời nói gieo rắc mầm sống của ơn cứu độ, mà Chúa muốn mời gọi con góp phần để xây dựng một trời mới đất mới, nơi Chúa đang kiến tạo cho nhân loại chúng con. Amen.

Tác giả bài viết: Lm. Thái Nguyên

Nguồn tin: www.gplongxuyen.org