CÁC BÀI SUY NIỆM ĐÊM VỌNG PHỤC SINH

CÁC BÀI SUY NIỆM ĐÊM VỌNG PHỤC SINH

.
Mục lục
Suy niệm năm 2016
Mừng vui lên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thiên Chúa xót thương con người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
Chúa Phục sinh là Tin mừng cho nhân loại (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tháp nhập vào thân thể Chúa Giêsu (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
.
Suy niệm năm 2014
Tin Mừng Phục Sinh Cho Nhân Loại (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, GP.Xuân Lộc)
Niềm Tin Phục Sinh (Lm.Jos Tạ Duy Tuyền)
Ranh Giới Tử – Sinh  (Trầm Thiên Thu)
Tình yêu Chúa Phuc sinh  (Lm. Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc)
 
.
MỪNG VUI LÊN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới : “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24,4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24,5). Thấy vậy, hai người lên tiếng : “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết ? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24,1), hết sức bàng hoàng khi thấy :Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ ?” (Lc 24,2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói : “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24,7).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố : “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao : “Chúa Kitô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
Về mục lục
.
THIÊN CHÚA XÓT THƯƠNG CON NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có bao giờ chúng ta thắc mắc tại sao Giáo Hội thường cử hành lễ trọng vào ban đêm không ? Tại sao đêm Vọng Phục Sinh lại đọc nhiều bài đọc như thế và các bài đọc có ý nghĩa gì ?
Cử hành đêm Vọng Phục Sinh là một truyền thống rất lâu đời trong Giáo Hội. Đối với người Do Thái ngày xưa, họ bắt đầu ngày mới từ khi các vì sao xuất hiện, vì thế, các buổi cử hành vào đêm không phải là những giờ phút cuối ngày, nhưng là những giờ phút bắt đầu một ngày mới. Đối với đêm Vọng Phục Sinh, không chỉ là bắt đầu ngày mới, mà còn là bắt đầu một trang sử mới, một cuộc sống mới, một bình minh mới mà Chúa Phục Sinh đem đến cho nhân loại.
Các bài đọc của đêm Vọng được sắp xếp theo thứ tự thời gian, để giúp chúng ta nhìn lại một lịch sử yêu thương kỳ diệu mà Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, đã ban tặng cho nhân loại, dù con người đã phản bội Ngài.
Bài đọc sách Sáng Thế cho thấy, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài để tạo dựng nên một vũ trụ xinh tươi, tốt đẹp. Trong đó, việc tạo dựng con người là một tuyệt tác, là đỉnh cao của công trình sáng tạo. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài, trao tặng cho họ trái tim biết yêu thương. Việc Thiên Chúa tạo dựng con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, cho con người sự sống, cho thấy tình yêu thương tuôn tràn từ nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa làm chủ sự sống qua việc tạo dựng con người và vũ trụ, Thiên Chúa để cho sự sống của Ngài tuôn tràn trên vũ trụ và con người, để từ đây, con người và vũ trụ được thông chia sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa còn yêu thương ban tặng tất cả vũ trụ cho con người trông nom và cộng tác với Chúa làm cho nó tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, con người đã không nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa, đã đánh mất sự sống thần linh ở nơi mình khi bắt tay với ma quỷ và quay lưng lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa như người cha, không đành lòng nhìn thấy con của mình rơi vào cõi chết, Ngài đã bắt tay vào việc phục hồi nhân loại và vũ trụ. Các bài đọc cho thấy, Thiên Chúa hết sức kiên nhẫn với con người, Ngài không ngần ngại để làm lại từ đầu. Sau khi nguyên tổ loài người phản bội, Thiên Chúa đã bắt đầu một chương trình yêu thương cứu chuộc con người. Thiên Chúa kiên trì và trung thành với chương trình của Ngài. Thiên Chúa đã gọi và chọn Apbraham để từ nơi ông, Ngài bắt đầu gầy dựng một dòng giống mới. Apbraham trở thành cha của dân tộc Israel không chỉ bởi ông đã sinh ra Isaac theo máu huyết, nhưng qua câu chuyện hiến tế Isaac, ông đã quặn đau đến thắt ruột, tan nát tâm can vì tin vào Lời của Thiên Chúa. Chính từ sự đau đớn này, Thiên Chúa cho ông sinh lại Isaac một lần nữa trong đức tin.
Với cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập, một lần nữa, Thiên Chúa lại để cho lòng thương xót của Ngài vượt thắng tất cả. Thiên Chúa như người cha hết sức bảo vệ Israel là dân của Ngài. Như một chiến binh, Ngài đã ra tay chiến đấu với Pharao và quân Ai cập để bảo vệ Israel. Biến cố vượt qua Biển Đỏ là một bản anh hùng ca, ca ngợi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Dân Israel cảm nhận rõ ràng rằng, không phải vì họ tài gỏi hay lớn mạnh hơn các dân tộc khác, nhưng chỉ vì tình thương của Chúa bao bọc họ. Thiên Chúa đưa Israel ra khỏi Ai cập, vượt qua Biển Đỏ, đi vào Đất Hứa còn là hình ảnh cho thấy Thiên Chúa muốn Israel giũ bỏ quá khứ nô lệ nhục nhã, để bắt đầu một cuộc sống mới tự do.
Nếu như cuộc xuất hành của người Do Thái là một hành trình đi từ tình trạng nô lệ đến đất tự do, thì đêm nay, sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu, là khởi đầu cho một cuộc giải thoát nhân loại khỏi tình trạng nô lệ của ma quỷ và tội lỗi, đem lại sự giải thoát và cuộc sống mới cho nhân loại. Vì thế, đêm nay là khởi đầu cho một bình minh mới, một trang sử mới, trang sử của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Qua bài Esxultes, Giáo Hội đã ca ngợi tình thương diệu kỳ và quyền năng vô hạn của thiên Chúa đối với con người. Ngài đã “liều lĩnh” chấp nhận đánh đổi người Con ruột của mình là Chúa Giêsu để giành nhân loại về cho Ngài. Chúa Giêsu đã chấp nhận cuộc hành hình đau đớn thập giá, đã chia sẻ đến cùng với nhân loại qua cái chết, được an táng và đêm nay, Ngài đã bẻ gảy xiềng xích sự chết, đạp mồ bước ra. Chúa Giêsu đã trải qua một cuộc chiến hết sức cam go với ma quỷ và sự ác để đem lại tự do, tình thương và sự sống mới cho nhân loại.
Tuy nhiên, để đón nhận được sự sống, chúng ta không thể đi tìm sự sống từ nơi cái chết, mà phải tìm nơi Đấng đã sống lại và đang sống. Đó là điều Tin Mừng Luca nhấn mạnh. Các phụ nữ trong tường thuật hôm nay vẫn đang bị chôn vùi trong đau khổ và sự chết. Họ vất vả chuẩn bị mọi sự cho người chết mà thôi. Mặc dù trời đã tảng sáng, nhưng tâm hồn và niềm tin của các bà vào Chúa Giêsu vẫn còn mù tối. Các bà đem dầu thơm chỉ để ướp xác Chúa nên dù đã thấy tảng đá được lăn ra khỏi mộ, các bà vẫn bước vào mộ, và rồi, các bà không thấy Chúa.
Khi hai thiên thần với y phục sáng chói xuất hiện, các bà lại cúi gằm mặt xuống đất vì sợ hãi. Các thiên thần nhắc cho các bà : Sao các bà lại đi tìm người sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà khi Người còn ở Galilea, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại.
Như thế, để có thể đón nhận và tin vào mầu nhiệm Chúa Phục sinh, sống một cuộc sống mới cần phải có hai thái độ này : nhớ những điều Chúa Giêsu đã nói và bước ra khỏi ngôi mộ chết chóc. Vì nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói, các phụ nữ đã đón nhận được đức tin, đã ngập tràn niềm vui. Các bà bước ra khỏi mồ và trở về nói cho các tông đồ tất cả những sự việc.
Thánh Luca cũng rất tinh tế cho thấy, ông Simon Phêrô với vai trò là thủ lãnh của Giáo Hội, đã đứng lên, chạy ra mộ. Khác với các phụ nữ trước đây đã cúi gằm mặt xuống đất, Phêrô đã cúi xuống để nhìn, để chiêm ngắm với sự cung kính trước mầu nhiệm và tình thương xót vô cùng lớn lao Thiên Chúa đã thực hiện cho nhân loại qua sự kiện Phục sinh. Phêrô đã trở thành nhân chứng và trụ cột cho niềm tin của cả Giáo Hội.
Với dòng nước và ơn của Bí tích Rửa tội, chúng ta được cùng với Chúa Giêsu vượt qua sự chết và tội lỗi, được cùng chia sẻ sự sống mới, sự sống Phục sinh của Người. Tất cả chúng ta được đón nhận một cuộc sống mới, con người mới khi chúng ta tin và sống theo Lời của Chúa Giêsu, quyết tâm bước ra khỏi ngôi mộ chết chóc là con người cũ, nếp sống cũ để bắt đầu một nếp sống mới, cuộc đời mới.
Tuy nhiên, con người chúng ta yếu đuối, rất dễ bị rơi lại tình trạng nô lệ của ma quỷ và tội lỗi, nếu chúng ta không để cho sức mạnh của Chúa Giêsu Phục sinh làm chủ trong tâm hồn chúng ta. Với thời gian, do sự lười biếng và lôi kéo của xác thịt, con người dễ rơi trở lại con người cũ, thói quen cũ nếu chúng ta không liên tục để cho Lời Chúa biến đổi và làm mới cuộc sống chúng ta mỗi ngày.
Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận mầu nhiệm Phục sinh, can đảm lật bỏ những hòn đá là tội lỗi, là nếp sống cũ đang đè nặng trên cuộc đời mỗi người. Xin cho chúng ta luôn biết làm mới cuộc sống mình bằng việc đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa, để cho Lời Chúa thanh luyện, hướng dẫn để biết sống xứng đáng là con người mới đã được Chúa cứu chuộc. Amen.
Về mục lục
.
CHÚA PHỤC SINH LÀ TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
“Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15,14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,19),
Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.
Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.
Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.
  1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ
Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác…
Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!
Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24 5-7).
Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).
Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.
Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.
Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!
Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài…(x. Mt 4,18-22).
  1. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta
Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.
Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo… nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.
Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.
Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.
Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.
Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.
Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước…
Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.
Về mục lục
.
THÁP NHẬP VÀO THÂN THỂ CHÚA GIÊSU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Vào ngày 23 tháng 9 năm 1998, Giáo sư Jean Michel Dubernard, một bác sĩ phẫu thuật người Pháp, đã lấy cánh tay của một người Pháp mới chết vì vỡ sọ trong một tai nạn xe mô-tô để ghép vào phần tay cụt của ông Clint Hallam, một người New Zealand bị cụt vì bị máy cưa cắt đứt cánh tay mười bốn năm về trước. Cuộc giải phẫu kéo dài mười ba tiếng đồng hồ tại bệnh viện Edouard Herriot.
Ông Hallam vui mừng cho các phóng viên báo chí biết: “Hiện nay ông có thể sử dụng cánh tay mới ghép để cầm bút viết tên của mình, để rửa mặt, thắt cà vạt, cài nút áo và dắt con đi chơi.”
Thế là cánh tay của một người Pháp 41 tuổi đã trở thành cánh tay của ông Hallam. Từ đây, máu của ông Hallam chảy vào cánh tay của một người Pháp, sức sống của ông Hallam chuyển thông vào cánh tay được tháp nối và làm cho cánh tay nầy chuyển động và làm được nhiều công việc tốt lành.
Một cánh tay của người đã chết, tưởng đã tan nát thối rữa đi trong mồ, may thay nhờ được ghép nối với thân thể ông Hallam mà được sống lại. Thật là điều rất đáng mừng.
Đức Giê-su sống lại cũng đem lại cho chúng ta, là những người đã chết vì tội lỗi, một sự sống mới tương tự như thế.
Chúng ta tựa như cánh tay của người chết vì tai nạn trong câu chuyện trên đây, phúc thay, Đức Giê-su phục sinh đã đã dùng Bí tích Thánh tẩy để tháp nhập chúng ta vào thân thể Ngài, để chúng ta được nên một với Ngài, như bàn tay tháp vào thân thể, như cành nho tháp vào thân nho, nhờ đó Chúa Giê-su thông ban sức sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Giáo lý Hội thánh xác nhận điều nầy: “Bí tích Thánh tẩy làm cho ta trở thành chi thể trong thân thể Chúa Giê-su” (GLHTCG số 1267)
Thế là từ đây, máu của Chúa Giê-su lưu chảy trong huyết mạch chúng ta; giờ đây sự sống của Chúa đang được thông truyền cho chúng ta. Đây là ơn huệ vô cùng lớn lao và quý báu do Đức Giê-su phục sinh mang lại cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy vui mừng hân hoan!
Chúng ta vui mừng hân hoan vì tuy chỉ là loại thụ tạo hèn kém, là những người tội lỗi đáng chết, thế mà Thiên Chúa đã thương đến thân phận khốn hèn của chúng ta. Ngài đã nâng chúng ta lên, cho chúng ta được kết hợp với Ngài, được trở nên chi thể, nên thân mình của Ngài.
Chúng ta vui mừng hân hoan vì một khi được tháp nhập vào thân mình Chúa Giê-su, mạch sống của Chúa Giê-su sẽ được chuyển thông cho chúng ta như nhựa sống của thân nho chuyển thông cho cành nho, như máu từ tim chuyển về cho từng chi thể. Thế là chúng ta đang mang sự sống của Thiên Chúa trong con người chúng ta và nhờ đó chúng ta sẽ được sống đời đời.
Nhưng muốn có được ơn huệ quý báu nầy, chúng ta phải gắn bó bền chặt với Chúa Giê-su như cành liền cây và phải tránh xa tội lỗi, vì khi phạm tội trọng, chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa, không còn là chi thể của Chúa nữa, do đó sự sống của Thiên Chúa không thể chuyển thông cho chúng ta được.
Lạy Chúa Giê-su,
Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con hạnh phúc tuyệt vời là được trở nên chi thể trong thân mình Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con thường xuyên gắn bó với Ngài bằng đời sống yêu thương phục vụ và đừng bao giờ tự tách lìa khỏi Chúa bằng những tội lỗi của mình.
Về mục lục
.
TIN MỪNG PHỤC SINH CHO NHÂN LOẠI
  Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chiếc máy bay của Malaysia mất tích hôm 8/3 đến nay đã hơn một tháng, mặc dù các thông tin cho thấy, khả năng tìm thấy chiếc máy bay này hầu như rất thấp, tuy nhiên những người thân của các nạn nhân trong chuyến bay này vẫn không tin đó là sự thật, họ vẫn chờ đợi một phép màu nào đó xảy ra và họ hy vọng người thân của họ còn sống sót ở đâu đó. Có người chờ người yêu để làm đám cưới, có người chờ người thân đem về cho những món quà, người thì chờ mẹ, kẻ thì chờ con…Vì họ vừa mới nói chuyện với nhau vui vẻ mấy tiếng đồng hồ trước khi máy bay cất cánh, nên thông tin máy bay bị nạn khiến họ không thể tin được.
Từ tâm trạng của những người thân các nạn nhân trong chuyến bay xấu số ấy, chúng ta phần nào hiểu được tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu trong những ngày vừa qua. Họ không tin vào mắt mình, họ cũng không tin vào những gì đã xảy ra cho Thầy Giêsu mấy ngày hôm nay, vì họ cũng vừa mới ở bên Ngài, cùng ăn, cùng uống với Ngài, vậy mà giờ đây Ngài đã bị người ta hành hạ và giết chết một cách thê thảm như thế. Nhớ lại những việc Đức Giêsu đã làm, những lời giảng dạy đầy quyền năng, những phép lạ phi thường Ngài đã làm, các môn đệ không tin rằng Thầy của họ lại có thể chết. Vì mang tâm trạng như thế, các tông đồ vừa đau buồn, hoang mang, vừa nuôi chút hy vọng sẽ có một điều gì đó xảy ra cho Thầy.
Ngay từ chiều ngày Sabat, lúc ngày thứ nhất trong tuần vừa bắt đầu, bà Maria Madalena và một số phụ nữ đi ra thăm mộ, họ mang một tâm trạng buồn rầu, đau đớn và hy vọng, “Thình lình đất trời rung chuyển, rồi có thiên thần hiện ra ngồi trên tảng đá, làm cho lính canh khiếp sợ chết ngất đi”, còn với các bà, thiên thần lên tiếng : “Các bà đừng sợ”. Với chi tiết này, Tin Mừng cho thấy một điều kỳ diệu đã xảy ra, hòn đá chết chóc đậy lên nấm mồ của Chúa đã được lăn ra ngoài, và thiên thần của Thiên Chúa ngồi lên trên, chứng tỏ đây là một cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên ma quỷ, của sự sống trên sự chết.
Tin Mừng lớn lao hơn nữa được thiên thần loan báo cho phụ nữ: “Chúa Giêsu không có ở đây, Ngài đã chỗi dậy như Ngài đã nói”. Chúng ta có thể hình dung các phụ nữ khi nghe Tin Mừng này, họ không thể tin vào tai mình, vì Tin Mừng này vượt quá sức tưởng tượng của con người, dù trước đây các phụ nữ này đã từng thấy Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại, cho con trai bà góa thành Naim, và con ông trưởng hội đường sống lại, nhưng có lẽ chưa bao giờ các bà nghĩ đến sự kiện này. Liền sau đó, thiên thần đã trao cho các bà một sứ mệnh : “Hãy về nói với các môn đệ rằng : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người sẽ đi đến Galilê trước các ông”.
Tin Mừng Phục Sinh không chỉ dành riêng cho một người hay một nhóm người, nhưng là tin vui cho cả nhân loại, mà những phụ nữ và các tông đồ là những người đầu tiên được đón nhận, và là niềm hy vọng, là sự biến đổi cho các ông và cho những ai tin. Thánh Kinh ghi lại : “Các bà tuy sợ hãi nhưng rất đỗi vui mừng”. Sợ hãi vì họ đối diện với quyền năng của Thiên Chúa ; vui mừng vì Chúa đã Phục Sinh đem lại cho các bà bình an và hy vọng. Các phụ nữ này đã không giữ riêng tin vui cho mình, nhưng các bà đã vội vàng về báo Tin Mừng này cho các tông đồ.
Nếu như lúc trước các phụ nữ chỉ được nghe thiên thần loan báo về việc Chúa phục sinh, lòng các bà còn đầy sợ hãi nghi ngờ, thì giờ đây chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các bà và khuyến khích các bà : “Các chị đừng sợ”. Chắc hẳn rằng con người luôn bị ám ảnh bởi sự sợ hãi, sợ đau khổ, sợ chết, sợ tai họa, sợ những gì là thần thiêng. Biến cố tử nạn của Chúa, đã để lại trong tâm trí các phụ nữ sự sợ hãi, nó như tảng đá đè nặng trong tâm hồn họ, nó ngăn trở họ đón nhận Tin Mừng Phục Sinh. Để giải tỏa sự cản trở này, chính Đấng Phục Sinh đã đón gặp các bà, các bà đã tin và đã bái lạy Ngài. Chi tiết : “các bà sấp mình bái lạy” cho thấy chính Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm hồn các bà, giúp các bà tin, tin Ngài đã từ cõi chết sống lại, và tin Ngài là Thiên Chúa. Một lần nữa Đức Giêsu đã sai các bà : “Về báo tin cho anh em của Thầy đến Galilê, ở đó họ sẽ được gặp Thầy”.
Trong đêm Vọng Phục Sinh này, chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành biến cố trọng đại này, để qua việc cử hành, chúng ta một lần nữa tái khẳng định niềm tin của chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh từ cõi chết, là niềm hy vọng cho chúng ta, để từ đây chúng ta không còn sợ hãi trước cái chết nữa vì Chúa của chúng ta đã chiến thắng ma quỷ và sự chết. Cũng trong Đêm Phục Sinh này, chúng ta tái cam kết để thực hiện sứ mạng mà Chúa đã trao, đó là : “Hãy về báo tin mừng này cho anh em của Thầy”.
Thánh Phaolô cho thấy, nhờ ơn của Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã được dìm vào dòng nước thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, dìm vào cái chết của Ngài và cùng được chia sẻ vào sự sống với Ngài, vì thế kể từ đây chúng ta phải sống một đời sống mới, với một con người mới và một tinh thần mới. Con người mới là con người có Đức Kitô, và đón nhận sức sống từ Đức Kitô, là con người được tự do, được giải thoát. Vì đã được giải thoát và được tự do, nên chúng ta không thể để mình bị rơi vào sự trói buộc của ma quỷ và sự chết nữa, nhưng phải sống đúng với tư cách là những người đã được cứu độ, được giải thoát, được Đức Kitô bảo vệ.
Sống và loan báo Tin Mừng là hai việc luôn đi liền với nhau. Sống là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ, là Đấng đem đến cho con người niềm hy vọng chắc chắn về sự Phục Sinh và sự sống vĩnh cửu. Sống Tin Mừng là sống với Đức Giêsu Phục Sinh, là thực hành giới răn và lề luật của Chúa, là sống như Chúa đã sống, là nên một, nên bạn thân với Chúa. Các phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện thái độ sống bằng việc tin, ôm lấy chân Chúa, phó thác đời mình cho Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa. Cùng với việc tin và thờ lạy là loan báo cho anh em của Chúa về tin vui này, tức là không chỉ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nhưng cho tất cả các anh em của Chúa, mà anh em của Chúa là mọi người đang sống trong buồn sầu, chán nản và thất vọng, đang sống trong sợ hãi và lo âu, những người chưa biết Chúa, những người đã mất niềm tin, và cả những người dù vẫn tin, nhưng đức tin đã khô cằn, không còn sức sống.
Thực tế ngày nay nhiều người Kitô hữu đã đánh mất lòng hăng say loan báo Đức Giêsu cho anh em, vì họ vẫn chưa loại bỏ khỏi mình sự đè nặng bởi hòn đá sợ hãi. Sống trong một xã hội người ta gieo rắc sự bắt bớ, giết chóc, bất an, sự hành hạ, nghi kị khiến cho nhiều người sợ, sợ mất quyền lợi, sợ ảnh hưởng đến công việc, sợ phiền phức cho bản thân và gia đình, nên đã chấp nhận sự im lặng và làm ngơ trước những đòi hỏi của việc loan báo Tin Mừng. Sống trong một thế giới mà dường như khoa học kỹ thuật thắng thế, những lối sống duy vật vô thần đang ảnh hưởng sâu rộng, khiến nhiều tín hữu sợ không dám nói về Đức Giêsu Phục Sinh, không dám nói về giáo lý của Ngài, và kể cả không dám tỏ mình là những môn đệ của Ngài. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn khiến nhiều Kitô hữu không dám nói về Đức Giêsu Phục Sinh cho người khác, là vì họ không có Đức Kitô, không biết về giáo lý của Ngài, và chưa bao giờ gặp được Đức Giêsu Phục Sinh trong cầu nguyện, trong tiếp xúc riêng tư với Ngài, khiến họ không thể nói về Ngài.
Cùng cử hành mầu nhiệm Phục Sinh đêm nay, xin cho mỗi chúng ta biết noi gương các phụ nữ trong Tin Mừng, khiêm tốn chạy đến ôm lấy Chúa qua việc tin tưởng, đọc và suy gẫm Tin Mừng, qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, phó thác đời mình cho Chúa, sấp mình thờ lạy Ngài, để xin Ngài cất đi sự sợ hãi và những cản trở trong cuộc sống, biến mỗi chúng ta thành những người mạnh dạn loan báo tin vui Chúa Phục Sinh cho anh chị em chung quanh bằng chính cuộc sống tốt lành của chúng ta. Amen.
Về mục lục
.

NIỀM TIN PHỤC SINH
 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một người đố tôi thế này: Thưa cha, người ta kể rằng sau khi Chúa Giê-su về trời, các thiên thần và các thánh đều nghe nói Chúa Giê-su khi còn ở dương thế có thể đi trên mặt nước, liền đề nghị Chúa Giê-su biểu diễn. Nhưng Chúa Giê-su đã bất lực không thể đi trên mặt nước được nữa! Đố cha lý do tại sao?
Tôi còn suy nghĩ thì người ấy nói: Bởi vì đôi chân của Chúa đã bị lỗ đinh xuyên thủng nên nước tràn qua chân rồi!
Quả thực, nếu nhìn biến cố Phục sinh bằng con mắt phàm trần có lẽ chúng ta khó có thể hiểu được những gì đã diễn ra trong cái chết và phục sinh của Chúa. Chúng ta không thể hiểu được người chết sống lại sẽ như thế nào?
Có người còn đố nhau nếu mai sau sống lại thì mình sẽ sống lại ở lứa tuổi nào để có thể nhận ra nhau? Sống lại với dung nhan ở tuổi 20 đầy sức sống, ở tuổi 40 với vẻ quý phái, hay ở tuổi 60 đầy phúc hậu . . . Có người còn đố nhau sau khi sống lại sẽ ăn gì, mặc gì . . .?
Những câu hỏi thực tiễn ấy đều được trả lời qua biến cố Chúa Giê-su phục sinh. Ngài đã phục sinh nhưng không còn trong thân xác hữu hạn của con người. Thế nên, các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự phục sinh đưa Ngài vào cõi sống trong Thiên Chúa không còn lệ thuộc bởi không gian và thời gian, càng không lệ thuộc bởi cái ăn, cái mặc. Ngài có thể hiện diện ở nhiều nơi cho nhiều người khác nhau. Các tông đồ ở Giê-ru-sa-lem cũng từng thấy Người hiện ra, và hai môn đệ trên đường Emmau cũng từng thấy Người. Họ gặp nhau và kể lại về những cuộc hiện ra của Người.
Hôm nay chúng ta vui mừng cử hành lễ Chúa Giê-su phục sinh. Chúng ta cùng nghe những chứng nhân kể lại việc Chúa đã sống lại thế nào? Và chính họ đã dùng cả tính mạng mình để làm chứng cho điều mà các ngài đã nghe và đã thấy về sự phục sinh của Chúa. Cho dù có bị cấm đoán, bị đe dọa đến tính mạng các ngài vẫn can đảm nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời phàm nhân.
Sự kiện Chúa Giê-su phục sinh cũng khơi lên trong chúng ta niềm vui về cuộc đời này. Cuộc đời chúng ta không có tận cùng. Chúng ta sinh ra đã là bất tử vì được tạo dựng giống hình ảnh Chúa vĩnh hằng. Cái chết không là tận cùng mà là cửa ngõ đưa ta vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên, trong cõi vĩnh hằng ta sống trong hồng phúc với Chúa hay chịu luận phạt trong biển lửa đời đời? Điều này tùy thuôc vào lối sống của chúng ta hôm nay. Chọn Chúa hay chọn theo ma quỷ? Đi theo lẽ phải hay đi theo tà tâm? Làm việc thiện hay làm điều gian ác? Mọi việc chúng ta làm đều được Chúa phân xử công minh.
Thế nên, muốn có được sự sống đời đời hãy theo gương Đức Ky-tô. Hãy sống một cuộc đời như Đức Ky-tô là tìm kiếm và thi hành ý Chúa. Hãy can đảm từ khước những ước muốn tội lỗi, những cám dỗ mà ma quỷ bày ra để ta phản nghịch cùng Chúa. Xin đừng vì những thú vui trần thế mà đánh mất ơn nghĩa cùng Chúa, đánh mất thiên đàng mai sau.
Ước gì niềm tin Chúa phục sinh sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta như đã từng biến đổi các tông đồ. Biến đổi từ con người nhút nhát trở thành con người kiên cường. Từ con người yếu đuối trở thành mạnh mẽ trong ơn thánh của Chúa. Từ con người tầm thường trở thành những con người làm thay đổi thế giới nhờ văn hóa ky-tô giáo mà các ngài rao giảng. Xin Chúa cũng biến đổi tâm tư và cuộc sống chúng ta theo giáo huấn của Chúa. Xin Chúa cũng dùng chúng ta như khí cụ loan báo tin vui Chúa Phục Sinh đến tận cùng thế giới. Amen
Về mục lục
 
RANH GIỚI TỬ – SINH
Trầm Thiên Thu
Cái gì cũng có ranh giới, biên độ, biên giới. Nhưng có một loại ranh giới “độc đáo” nhất, vừa đáng quan ngại vừa đáng quan tâm, đó là Ranh Giới TỬ – SINH, ranh giới giữa Sự Chết và Sự Sống. Rất mong manh, chỉ là một làn hơi thở!
Chẳng ai muốn nói tới sự chết, người ta co đó là chuyện xui xẻo. Các môn đệ đã buồn, thậm chí Phêrô còn ngăn cản Thầy Giêsu, khi nghe Ngài nói về việc đi chịu chết. Không chỉ một lần mà đã vài lần Đức Giêsu Kitô tỏ cho các môn đệ biết rằng Ngài phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, họ lại nộp Ngài cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá rồi bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19).
Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, họ gọi Đức Giêsu là “tên bịp bợm”, họ xin ông Phi-la-tô cho lính canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba vì họ sợ có người đến lấy trộm xác rồi phao tin Ngài sống lại. Và họ đã niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ (Mt 24:62-66). Thế nhưng cũng chỉ là dã tràng xe cát, hoàn toàn vô ích mà thôi!
Mấy tên lính canh đã bật ngửa khi Đức Giêsu sống lại, ấy thế mà họ vẫn cứng lòng. Họ sợ sự việc này đến tai quan tổng trấn nên đã chạy chọt và dàn xếp với quan để mấy tên lính canh được vô sự. Chính mấy tên lính canh đã nhận tiền hối lộ và làm theo lời họ là phao tin đồng nhảm, cho rằng thi hài Đức Kitô bị đánh cắp, và câu chuyện này vẫn được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay (Mt 28:14-15). Thật là kinh khủng quá!
Nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật. Chúa Giêsu sống lại hay chết vĩnh viễn thì thế giới đã biết rõ. Không cần tranh cãi với những kẻ vô thần cứng lòng tin, lòng chai dạ đá, xơ cứng hơn gan bị ung thư. Thánh Phaolô đã lý giải: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ vô ích, vì đó là niềm tin hoang đường, hão huyền, vô căn cứ, và chúng ta vẫn sống trong tội lỗi” (1 Cr 15:17). Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, không uổng phí, vì Đức Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20:38).
Trình thuật St 22:1-18 nói đến “ranh giới tử – sinh”, đó là việc ông Áp-ra-ham vâng lời Chúa mà hiến tế con mình làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi theo lệnh Ngài truyền. Không chần chừ, không so đo, không tính toán, ông dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con trai I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ ở lại với con lừa, rồi đưa con trai đi, ông bảo rồi sẽ trở lại với họ.
I-xa-ác không thấy chiên để làm lễ toàn thiêu nên hỏi cha, ông Áp-ra-ham bảo chiên làm lễ toàn thiêu sẽ được chính Thiên Chúa lo liệu. Hai cha con cùng đi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, rồi trói I-xa-ác con ông lại và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Có điều lạ là I-xa-ác cũng ngoan ngoãn theo lệnh mà không hề phản đối, niềm tin của người con cũng lớn không kém niềm tin của người cha.
Khi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình thì sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Sứ thần nói:“Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Đúng là Thiên Chúa sẽ lo liệu như ông đã nói, và ông đặt tên cho nơi đó là “Đức Chúa sẽ liệu”. Từ đó có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu”.
Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đãkhông tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Đức tin của ông Áp-ra-ham lớn quá: Sẵn sàng ra đi đến miền đất Chúa chỉ cho và không ngại hiến tế chính con yêu dấu của mình!
Ông tin vì ông biết địa cầu đầy ân sủng của Thiên Chúa. Ở đâu có Chúa là có bình an, có hạnh phúc. Đúng như tác giả Thánh Vịnh đã tin tưởng khi xác nhận: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Chúa dồn đại dương về một chỗ, Người đem biển cả trữ vào kho” (Tv 33:4-7).
Quả thật, “hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp, và từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Thiên-Chúa-của-người-sống là kho báu mà mọi người mơ ước và cầu mong: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20-22).
Ranh giới tử – sinh mong manh nhưng lại là một hành trình dài, là cuộc xuất hành đầy gian nan, và là cuộc vượt qua cam go.
Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 14:15-18).
Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước biển rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Dân Ít-ra-en đi qua, còn quân Ai-cập thất bại ê chề. Đó là cuộc giải phóng thần kỳ. Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập nên kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê.
Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh, đã nghiền nát địch quân. Người cho dân tiến vào định cư họ trên núi gia nghiệp của Người. Lạy Chúa, chính nơi đây Người chọn làm chỗ ở, đây cũng là đền thánh tự tay Người lập nên. Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Xh 15:1-6, 17-18).
Nước rất mềm yếu nhưng cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa sạch ô uế, nước gội mát muôn vật, làm cho mọi vật hồi sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thiếu nước thì người ta mau chết hơn là thiếu đồ ăn. Nước là biểu hiện của sự sống. Nước rất kỳ diệu!
Nước tự nhiên mà còn kỳ diệu đến thế huống chi nước tâm linh. Thánh Phaolô nói:“Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4).
Về ranh giới tử – sinh, Thánh Phaolô nói: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với vòng tử – sinh như vậy!
“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8). Niềm tin rất chính xác, không luống công vô ích. Thánh Phaolô nói: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).
Được thừa kế niềm tin đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi mọi người: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Tại sao? Lý do rất rạch ròi: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực. Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:16-17).
Đức Kitô chính là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Ngài đã bị giết chết nhục nhã, người ta tưởng vậy là chấm dứt lịch sử, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế trận, Ngài đã chiến thắng tử thần và đã phục sinh vinh quang. Đó chính là công trình của Chúa, công trình vô cùng kỳ diệu trước con mắt phàm nhân chúng ta.
Trình thuật Mt 28:1-10 nói về khoảnh khắc lịch sử độc nhất vô nhị trên thế gian này, lời kể ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ.
Sau ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, tụi lính canh khiếp sợ và run rẩy đến nỗi chết ngất đi. Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng tin còn hơn sáp nguội!
Thiên thần bảo các phụ nữ “đừng sợ!”, và cho biết rằn Đức Kitô đã sống lại như Ngài đã nói trước. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn về báo tin mừng và bảo các tông đồ đến Ga-li-lê để được diện kiến Thầy iêsu. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục Sinh.
Có hai điều chúng ta cần học tập từ các phụ nữ này: Mau mắn loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Các phụ nữ này đang trên đường đi, Đức Giêsu đón gặp họ và nói: “Chào chị em!”. Các bà khoái chí hết sức nên đua nhau tiến lại gần Ngài, ôm lấy chân Ngài và bái lạy Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với họ: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các phụ nữ đó là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh và trở thành các nhân chứng sống đầu tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Chúng ta phải ghi nhớ và thực hành hai chữ quan trọng trong cuộc sống: ĐỪNG SỢ! Đó là mệnh lệnh đòi hỏi phải có lòng can đảm thực sự, không dễ thực hiện. vì thế mà ai cũng phải cố gắng không ngừng. Cũng như ranh giới tử – sinh, biên độ cũng rất mong manh giữa sự can đảm và sự hèn nhát. Do đó mà lúc nào chúng ta cũng phải tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG SỢ!
Lạy Thiên Chúa vĩnh sinh, xin thêm đức tin và lòng can đảm cho chúng con, xin giúp chúng con mau mắn và can đảm làm chứng về sự thật, làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của chúng con, mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Về mục lục
TÌNH YÊU CHÚA PHỤC SINH
 Lm. Jos. DĐH.
Để tiêu diệt bóng đêm, người ta phải cần có ánh sáng, ít là ngọn đuốc hoặc là cây đèn pin. Muốn phân biệt thật giả, ai cũng cần đến một sự “tỉnh táo” tạm gọi là công lý mới có tính thuyết phục. Để tiêu diệt sự dữ, sự xấu, người ta rất cần đến sức mạnh, không hẳn là sức mạnh cơ bắp hay tiền của vật chất, mà chính xác phải có sức mạnh của tình yêu.
Đêm tối hôm nay với nhân loại cũng chỉ là một buổi tối bình thường; người Kitô giáo chúng ta ai cũng hiểu đêm nay là đêm đặc biệt, đêm mà “phụng vụ” diễn tả thời gian là của Thiên Chúa. Ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô tiêu diệt sự chết, tất cả những ai tin tưởng cậy dựa vào Chúa Kitô, đều đón nhận được niềm vui và sức mạnh của “Ơn Phục Sinh”.
Chúa Kitô đã sống lại mà giáo hội xác tín cử hành đêm nay, không phải là một sự kiện chôn vùi trong quá khứ nay lập lại; cuộc tử nạn và Phục Sinh vẫn đang sống động, đang trải dài trong lịch sử loài người qua từng gia đình, từng tâm hồn, dù tin mạnh hay tin hời hợt, sự chết và sự sống vẫn là sự thật. Người Do Thái đóng đinh Đức Giêsu vào cây thập giá, từ khổ đau thập giá, Ngài trút hơi thở là sự thật. Còn việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết, Ngài là ánh sáng xua tan tối tăm thuộc về tự do tin yêu của những ai thành tâm thiện chí.
Dù không ai trong chúng ta đây lại có ý bán Chúa hay từ chối Thầy, nhưng chúng ta từng lỗi phạm, thiếu niềm tin, không khác gì chúng ta thường muốn Chúa một lần nữa chịu chết và sống lại cho chúng ta. Từ niềm tin yêu, Chúa sẽ xuất hiện cho chúng ta gặp Ngài, hình ảnh Chúa Phục Sinh là Giáo Hội, là người anh chị em của chúng ta. Chính nhờ lòng mến yêu, các phụ nữ, các tông đồ, họ được khai mở Đấng Phục Sinh đã chiến thắng sự chết.
Người đời vẫn cho rằng, bằng lý trí người ta tin là tin người đang sống, một người có thể gặp được, chứ không ai dại dột gì tin người đã chết và không còn liên hệ gì với họ. Những nhân vật nổi tiếng trên đời, những anh hùng dân tộc, dù sự nghiệp các vị ấy lẫy lừng đến đâu, người ta cũng chỉ khâm phục, đáng trân trọng và cùng lắm là thắp nhang tưởng nhớ. Hơn 2000 năm trước, giới chức Do Thái đã từng nghĩ rằng: đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá rồi là mọi việc chấm hết, là kết thúc sự nghiệp mà Ngài đã xây dựng suốt 3 năm qua…
Cứ bình thường, Đức Giêsu chết là hết, sau đó chỉ còn lại kỷ niệm; những lời nói, việc làm có liên quan đến các học trò, người mộ mến, rồi theo qui luật sẽ tự tiêu tan. Và như thế nào là bất thường ? Tảng đá to phải nằm im vì có lính canh gác cẩn thận… ! Nhưng không, cửa mộ đã bật tung. Trong huyệt đá ấy chỉ còn tấm khăn liệm. Thân xác Đức Giêsu không còn, ngôi mộ trống để lại nhiều lo sợ và vui mừng cho cả những người giết Chúa và những người yêu Chúa.
Phải có sức mạnh nào đó mới lăn được tảng đá to khỏi mộ, phải có điều gì xảy ra, các lính gác mới lo sợ bỏ đi, thay vào đó là các phụ nữ phát hiện ngôi mộ trống. Phải có lòng yêu mến thực sự, các phụ nữ ấy mới nhận biết người mặc áo trắng là Thiên Thần, nghe được, hiểu được lời chỉ dẫn : “Người không có ở đây, vì Người đã sống lại như lời Người đã nói”.
Không có Phục Sinh, chỉ có đau khổ và sự chết, thì cũng chẳng có niềm tin. Đức Kitô chỉ dừng lại ở đau khổ thập giá mà không Phục Sinh vinh quang, niềm tin theo Chúa thực là vô nghĩa. Các tông đồ không thể không tan nát cõi lòng vì phải chứng kiến Thầy chết thảm thương trên thập giá, ánh sáng tin yêu của Thầy Giêsu bừng lên một sức sống mới khi các ông hay tin Thầy đã sống lại. Sức sống mới khởi đi từ việc gặp gỡ Chúa Phục Sinh của các phụ nữ, được nghe nghe lệnh truyền: “các bà đừng sợ, hãy đi báo tin cho anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”.
Với các phụ nữ, các tông đồ, họ đã hạnh phúc vì diện đối diện, lòng đối lòng với Đấng Phục Sinh, còn chúng ta, Ngài vẫn là Thiên Chúa hằng sống, đang tìm gặp ta, tuy với một cách thức khác, nhưng vẫn chung một khởi đầu là tình yêu và lòng mến, để nghe, và biết thực hành niềm tin vào Đấng Phục Sinh.
Đêm đen không hẳn là đêm tối tuyệt vọng, ánh sáng không chỉ là chiếu soi, mà ánh sáng còn sưởi ấm được các tâm hồn đang tìm Chúa. Vì Chúa thương loài người, vì tội lỗi cản trở tình yêu thương như đêm đen, công trình Cứu độ của Thiên Chúa vẫn đi lên và chín dần theo năm tháng. Chúng ta là những con người của thời đại : là những phụ nữ như Maria Mađalêna, như các phụ nữ khác hay như các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta không được ngồi yên bất động trong sự sợ hãi, không được mất phương hướng trên đường đời, dẫu có gian nguy thử thách ! Xin Chúa Kitô Phục Sinh chúc lành cho từng người chúng ta.
Về mục lục