CHÚA KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
- Thứ hai - 16/11/2020 20:34
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ nầy kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.
1Cr 15: 20-26, 28
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứi Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa nầy bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
1. Sứ điệp hy vọng.
Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.
2. Tôn giáo tình yêu.
Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.
Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu nầy mà vị Vua-Mục Tử tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hảm linh hồn lại được sống lại?
Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rể trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.
1. Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta:
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu.
2. Vương quyền của Đức Giê-su.
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến nầy đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
1. Con Người.
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng nầy ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua-Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,
lại còn lột cả áo che thân của họ.
Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,
người đói lả, anh từ chối bánh ăn.
Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành,
và cho người thần thế được định cư.
Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng,
các cô nhi, anh bắt phải bó tay.
Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía
làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
2. Mến Chúa và yêu người.
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?
Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.
3. Bối cảnh lịch sử.
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng nầy đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn nầy, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.
4. Tầm mức hoàn vũ.
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.