CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
- Thứ tư - 18/04/2018 09:02
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật năm B này có chung một chủ đề: Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.
Cv 4: 8-12
Khi bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô giải thích cho họ, những người đã kết án tử Đức Giê-su trước đây, rằng họ đã loại bỏ Đấng mà chỉ ở nơi Ngài con người mới gặp được ơn cứu độ.
1Ga 3: 1-2
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở rằng, được liên kết với Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và được đảm bảo dự phần vào số phận vinh quang của Ngài.
Ga 10: 11-18
Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su là vị Mục Tử nhân lành, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta vào ràn chiên của Thiên Chúa, vì Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 8-12)
Việc thánh Phê-rô bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng là kết quả của một sự kiện mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua: sau khi chữa lành một người què trước cửa Đền Thờ, vị thủ lãnh của các Tông Đồ đã ngỏ lời với đám đông kinh ngạc. Những lời phát biểu của thánh nhân đã làm bối rối các vị lãnh đạo Giê-ru-sa-lem và chắc chắn làm bực tức nhóm Sa-đu-xê-ô.
Chúng ta biết rằng nhóm Sa-đu-xê-ô không tin vào sự phục sinh của thân xác; họ cho rằng quan niệm nầy xuất hiện rất muộn thời trong niềm tin Ít-ra-en. Theo họ, sự tinh tuyền đạo lý đòi buộc người ta phải gắn bó với niềm tin thời kỳ trước lưu đày, ở đó không có dấu vết nào của niềm tin vào sự sống lại mai sau. Vì thế, họ không thể nào chấp nhận khi nghe nói về việc Đức Giê-su sống lại.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt cùng nhau ở Cửa Đền Thờ khi hai ngài lên Đền Thờ cầu nguyện và chữa lành người què. Họ là hai người bạn đồng hành gắn bó cùng nhau trong thời kỳ Đức Giê-su kêu gọi các Tông Đồ đầu tiên, và cũng như vậy trong thời gian cuối cùng sứ mạng của Đức Giê-su: chính hai người được sai đi chuẩn bị lễ Vượt Qua; chính hai người, sau khi trốn chạy vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trấn tỉnh lại và đi theo Ngài xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha; cũng chính hai người cùng nhau chạy đến ngôi mộ trống vào sáng sớm Chúa Giê-su Phục Sinh, vân vân. Bây giờ, cả hai ngài bị giam trong tù suốt đêm. Sáng hôm sau, họ bị điêu ra trước Thượng Hội Đồng, tức Tòa Thượng Thẩm Ít-ra-en, để bị chất vấn và tra hỏi.
1. Nơi diễn ra phiên tòa.
Hai vị Tông Đồ bị điệu ra trước những quan tòa mà, trước đây vài tuần, chính các vị quan toà này đã kết án Đức Giê-su: Thượng Tế đương nhiệm Cai-pha chủ trì Thượng Hội Đồng, Thượng Tế mãn nhiệm Kha-nan là bố vợ của Thượng Tế Cai-pha, cùng với các kỳ mục và các kinh sư.
Phiên tòa diễn ra cũng một nơi trước đây đã xử Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trời đã tối nên các thành viên Thượng Hội Đồng tụ họp vội vàng trong dinh Thượng Tế Cai-pha. Dinh Thượng Tế Cai-pha có lẽ đã gợi nhớ thánh Phê-rô một kỷ niệm đau buồn. Nhưng thật là khác biệt biết bao giữa thái độ hèn nhát của người môn đệ sợ hãi vào đêm bi thảm đến nỗi đã chối thầy mình đến ba lần và cái dũng khí của vị Tông Đồ được Biến Cố Phục Sinh soi sáng và được đầy tràn Thần Khí vào ngày lễ Ngũ Tuần.
2. Chứng từ của thánh Phê-rô trước Thượng Hội Đồng.
Giờ của sự thật đã điểm. Thánh Phê-rô phục hồi quyền của Đức Giê-su mà họ đã kết án trước đây, buộc tội những kẻ giết Ngài và công bố sự phục sinh của Đấng chịu đóng đinh. Thánh nhân phát biểu bằng giọng nói dạn dĩ: “Vậy, xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng”.
Thật ra, người ta tra hỏi các ngài là nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà hai ông đã chữa lành người què nầy. Thánh Phê-rô quả quyết rằng chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét. Thánh nhân chủ ý dùng thuật ngữ có một âm vang tiêu cực nầy như câu thành ngữ: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1: 46). “Chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh”. Và vị Tông Đồ còn cất cao giọng hơn nữa: “Chính Đấng ấy là viên đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường”.
Thật thú vị biết bao khi thánh Phê-rô công bố sứ điệp Phục Sinh trước hội đồng nầy, hội đồng đã lăng nhục và bêu xấu Đức Giê-su; thật tốt đẹp biết mấy khi những người đại diện chính thức của dân Chúa chọn nghe trực tiếp lời loan báo ơn cứu độ từ nay đạt được nhờ Đấng mà họ đã giết chết. Khi trích dẫn Kinh Thánh: “Viên đá mà thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118), vị Tông Đồ chứng minh rằng chân lý thuộc về phía của mình, bởi vì các ngôn sứ đã báo trước rằng chính họ là những thợ xây nhà Ít-ra-en đã loại bỏ đá tảng góc tường nầy.
Hơn nữa, sự hiện diện của người què được chữa lành trước tòa án nầy không phải là lời chứng hùng hồn rằng Đức Giê-su là nguồn ơn cứu độ sao? Phải nói rằng chính nhờ sự hiện diện của người được chữa lành nầy mà hai vị Tông Đồ được cứu: “Họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào” (Cv 4: 14). Cuối cùng, hai ông được thả ra, vì Thượng Hội Đồng sợ đám đông dân chúng: “Ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra” (Cv 4: 21). Nhưng chẳng bao lâu sau, thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt một lần nữa, lần nầy, hai ông bị đánh đòn và cấm không được nói đến danh Đức Giê-su; nhưng các ngài không thể nín lặng được và sẽ không bao giờ còn nín lặng.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-2)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “ơn làm con cái Thiên Chúa”. Người Ki-tô hữu là con cái Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha. Nhưng ơn nghĩa tử nầy sẽ thăng hoa viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống hoàn toàn với Con của Ngài vào ngày Ngài trở lại trong vinh quang.
1. Ơn làm con cái Thiên Chúa:
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta và gọi chúng ta là con cái của Ngài. Đó không chỉ là tước hiệu mà Ngài ban tặng cho chúng ta, nhưng một thực tại thâm sâu: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào: Người yêu chúng ta đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Do thái, một danh xưng diễn tả một sự thật tận gốc rể của con người: như vậy, Chúa Cha yêu thương chúng ta đến mức Ngài liên kết chúng ta vào Người Con của Ngài khi gọi chúng ta là con cái của Ngài. Phẩm vị nầy làm cho chúng ta khác với thế gian. “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người”. Những từ ngữ nầy vang dội lại những lời của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 18).
Toàn bộ bức thư nầy được cấu trúc theo lối phản đề; cuộc sống người Ki tô hữu đối lập với cuộc sống của những kẻ cứng tin hay những người lạc giáo. Ở đây, lối phản đề bao phủ một vùng rộng lớn: đó là thế gian, được hiểu theo nghĩa tiêu cực, thế giới của tội lỗi, bởi vì “thế gian đã không biết Thiên Chúa”.
2. Sự biến đổi trong tương lai.
Đoạn trích nầy có thể được đặt nhan đề: “Từ phép Thánh Tẩy đến sự biến đổi”. Thật ra, từ ngữ không nói lên điều nầy, nhưng chính sự chuyển động của tư tưởng.
Chúng ta đã được biến đổi rồi bởi cuộc sống làm con cái Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu tiên. Ơn làm con cái Chúa được hoàn thiện chỉ khi chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài; điều nầy sẽ chỉ xuất hiện vào thời chung cuộc. Bản văn có vẻ như muốn nói rằng chiêm ngưỡng Con của Ngài trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Thật ra, đây không là ý tưởng mà thánh Gioan thật sự muốn diễn tả, vì sự biến đổi của chúng ta được ươm mầm rồi ở nơi phẩm tính con cái Thiên Chúa của chúng ta.
Lời khẳng định của vị Tông Đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là nhân chứng của biến cố Biến Hình. Thánh nhân dường như ám chỉ đến kinh nghiệm nầy trong Tựa Ngôn: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy trần ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Thánh Phao-lô cũng gợi lên sự biến đổi tương lai nầy trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).
TIN MỪNG (Ga 10: 11-18)
Trong cả ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”. Mỗi năm Phụng Vụ chúng ta đọc một đoạn trích bài diễn từ của Đức Giê-su về “Người Mục Tử nhân lành” của chương 10 Tin Mừng Gioan. Vào năm A, chúng ta đã đọc phần đầu (10: 1-10); vào năm B nầy, chúng ta đọc phần tiếp theo (10: 11-18).
Bài diễn từ nầy được Đức Giê-su công bố ở Giê-ru-sa-lem sau khi Ngài cho một anh mù được sáng mắt. Trong bài diễn từ nầy, Đức Giê-su tự nhận mình là người mục tử đích thật. Bài diễn từ nầy được ghi nhận trong cuộc xung đột của Đức Giê-su với các đối thủ của Ngài: họ là “những kẻ chăn chiên thuê”,“quân trộm cướp”, “những kẻ tiếm quyền mục tử”. Những người Biệt Phái nầy đã trục xuất con chiên lẽ loi cô độc khỏi ràn chiên, tức là anh mù được sáng mắt. Đức Giê-su đã thu nhận anh, soi lòng mở trí cho anh vào ánh sáng đức tin… Như vậy chân dung của người mục tử nhân lành được nêu bật bởi sự đối lập nầy.
Mặt khác, các vị lãnh đạo Ít-ra-en đặt vấn đề về Đức Giê-su và uy quyền của Ngài khi đòi hỏi Ngài thực hiện những điềm thiêng dấu lạ. Đức Giê-su gián tiếp trả lời cho họ khi tự nhận cho mình tước vị Mê-si-a Mục Tử mà các ngôn sứ đã loan báo.
1. Hình ảnh người mục tử:
Hình ảnh người mục tử rất quen thuộc với một dân tộc vốn cha ông của họ đã từng sống đời sống du mục và chăn nuôi. Kinh Thánh đã phác họa Đức Chúa là vị Mục Tử lý tưởng. Ẩn dụ cho phép diễn tả hai khía cạnh của mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài: uy quyền nhưng từ bi nhân hậu. Nhưng tước hiệu mục tử nầy được dành riêng đặc biệt hơn cho Đấng Mê-si-a tương lai. Nhất là vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, vào thời điểm tai họa lớn lao: Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon chiếm, Đền Thờ bị phá hủy, và dân chúng bị dẫn đi lưu đày, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tiên báo rằng rồi đến một ngày Thiên Chúa sẽ đòi lại đoàn chiên của Ngài khỏi những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm gì đến đoàn chiên để giao lại cho Tân Đa-vít, không là vua, nhưng là mục tử đích thật, tận tâm tận lực chăn dắt chúng (Ed ch. 34). Chính dụ ngôn của vị ngôn sứ nầy là nguồn cảm hứng cho dụ ngôn của Đức Giê-su.
2. “Tôi là Mục Tử nhân lành”.
Trong phần thứ nhất của dụ ngôn (Ga 10: 1-10), Đức Giê-su đã phác họa những nét tiêu biểu của người mục tử nhân lành, nhưng chúng ta không thể lầm được, chính là chân dung của Ngài.
Phần thứ hai (10: 11-18), mà chúng ta đọc hôm nay, đưa chúng ta vào trọng tâm của sứ điệp: Đức Giê-su công khai tuyên bố Ngài là Mục Tử Nhân Lành, nhân lành không chỉ vì Ngài chan chứa tấm lòng nhân ái đối với đoàn chiên của mình, nhưng vì Ngài là mục tử đích thật, vị mục tử duy nhất mà dân chúng mong đợi. Khi Đức Giê-su công bố: “Tôi Là”, Ngài cho lời quả quyết nầy một giá trị tuyệt đối, loại trừ tất cả người khác: “Tôi là Đường, Sự Thật và Sự Sống”, “Tôi là ánh sáng thế gian”, “Tôi là cây nho đích thật”, vân vân. Và luôn luôn những “tôi là” nầy vén mở một mặc khải liên quan đến con người của Ngài, chưa nói đến “Tôi Là” (“Ego eimi”) đứng một mình quy chiếu đến Thần Tính của Ngài.
Khi tuyên bố mình là “Mục Tử Nhân Lành”, Đức Giê-su thủ đắc cho riêng mình tước hiệu Mê-si-a. Và chính Ngài xác định vai trò Mê-si-a của Ngài:
- Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
- Thiết lập những mối tương giao mật thiết giữa Thiên Chúa và con người.
- Quy tụ tất cả những ai tin vào Ngài để chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
3. “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”:
Đây là mặc khải cốt yếu gây xôn xao; mặc khải nầy mở ra và đóng lại toàn bộ đoạn văn nầy theo kỷ thuật đóng khung: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (10: 11) và “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (10: 18). Đức Giê-su loan báo cái chết của Ngài và ý nghĩa của cái chết nầy với một cung giọng trang trọng hết mức. Cũng chính cung cách trang trọng nầy mà Ngài sẽ bày tỏ trong suốt cuộc Khổ Nạn của Ngài mà thánh Gioan sẽ nhấn rất mạnh trong bài trình thuật Thương Khó của mình.
Đức Giê-su nghiêm túc đối mặt với cái chết của mình nhưng cũng hoàn toàn độc lập đối với những kẻ gây ra cái chết của Ngài, tức là các vị lãnh đạo Ít-ra-en hay viên Tổng Trấn Rô-ma: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. Nếu Ngài phải chịu như vậy, chính vì Ngài muốn như thế. Đó cũng là lời mà Ngài nói với thánh Phê-rô vào lúc bị bắt: “Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26: 53).
Đức Giê-su dự kiến trước tất cả những giải thích sai lầm mà người ta có thể có về cái chết của Ngài: cái chết nầy sẽ không là hậu quả tất yếu của một sứ điệp gây xáo trộn, như cái chết của biết bao ngôn sứ, nhưng do ý muốn của chính Ngài. Đây là một sự tự nguyện hiến dâng với sự đồng thuận của Cha Ngài, trong một tình yêu nên một đối với đàn chiên trần thế. Đức Giê-su vén mở cho chúng ta một khía cạnh sâu xa của mầu nhiệm nầy: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình”. Vì thế, khi Chúa Cha bỏ mặc Con Ngài trong sự khốn cùng, chính đó là lúc mà Chúa Cha yêu Con Ngài nhất…
Nhưng Đức Giê-su cũng loan báo cuộc Phục Sinh của Ngài: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Những lời nầy vang dội biết bao trong thời gian sắp đến. Đức Giê-su đã lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Lều, lễ diễn ra vào mùa thu. Vào mùa xuân sang năm, lễ Vượt Qua sẽ là lễ Vượt Qua của Ngài, từ Tử Nạn đến Phục Sinh…
4. “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”.
Sự kiện người mục tử và đoàn chiên “quen hơi bén tiếng” với nhau chiếm một chỗ quan trọng trong phần thứ nhất của dụ ngôn, ở đó Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người giữ cửa cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ…” (10: 3-5). Việc quen hơi bén tiếng nầy cấu thành niềm tin tưởng và tình yêu giữa người mục tử và đoàn chiên.
Trong phần thứ hai nầy, Đức Giê-su cho chúng ta nguyên mẫu của việc quen hơi bén tiếng nầy, chính là một sự hiểu biết nên một lòng một ý giữa Cha và Con. Đây là khuôn mẫu của những mối liên hệ mà Đức Giê-su muốn thiết lập giữa Ngài và con người. Thực hiện một mối tương giao sâu thẳm như thế là công trình của Ngài và giá máu của Ngài. Đây là ý nghĩa căn bản của dụ ngôn.
5. Chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
Một niềm hy vọng lớn lao chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: giờ của Đấng Mê-si-a sẽ là giờ hiệp nhất dân Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã ôm ấp giấc mơ nầy sau khi dân Do Thái bị phân chia thành hai vương quốc (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên). Những người lưu đày ở Ba-by-lon (thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên) đặt mọi niềm hy vọng của mình vào sự can thiệp của Đấng Mê-si-a, Đấng đến thực hiện công việc khó khăn, đó là quy tụ mọi con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa: “Đức Chúa sẽ quy tụ đoàn chiên của Ngài còn sót lại từ khắp mọi miền” (23: 3). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng hứa: “Sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy” (37: 24). Sự hiệp nhất sẽ là dấu chỉ của kỷ nguyên Mê-si-a và như bước khởi đầu của sự quy tụ cánh chung vĩ đại vào thời sau hết, khi muôn dân muôn nước đều nghe tiếng gọi của Đức Chúa, vì Ít-ra-en là ánh sáng muôn dân.
Đối với Đức Giê-su đây là một cách thế mới để khẳng định mình là Đấng Mê-si-a khi công bố mình là Đấng kiến tạo sự hiệp nhất của đoàn chiên. Nhưng Đức Giê-su không chỉ nghĩ đến những con chiên của nhà Ít-ra-en chưa nhận ra Ngài, Ngài còn nghĩ đến cuộc hoán cải của thế giới lương dân. Khía cạnh Giáo Hội được diễn tả rất rõ rồi trong phần thứ nhất của dụ ngôn với hình ảnh ràn chiên. Trong phần thứ hai nầy, khía cạnh Giáo Hội được diễn tả bởi hình ảnh về một ràn chiên rộng mở; không còn một ràn chiên được rào chắn vây bọc chung quanh với cửa đóng then cài, nhưng toàn thể thế giới. Chính Giáo Hội có sứ mạng hiệp nhất đoàn chiên trong cùng một ràn chiên và dưới cùng một vị mục tử, Đấng đã sinh ra trong hang lừa máng cỏ và đã hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên.