CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv 15: 1-2, 22-29; Kh 21: 10-14, 22-23; Ga 14: 23-29

Vì lễ Ngũ Tuần sắp đến nên Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh này đề cập đến Chúa Thánh Thần. Bài Đọc I và Tin Mừng trực tiếp đề cập đến Chúa Thánh Thần trong khi Bài Đọc II chỉ gợi ý.

Cv 15: 1-2, 22-29
Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca tường thuật tầm quan trọng của Công Đồng Giê-ru-sa-lem khi phải giải quyết những mối quan hệ giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân. Biểu thức kết luận nghị quyết của Công Đồng thật đáng chú ý: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.

Kh 21: 10-14, 22-23
Thị kiến được miêu tả trong sách Khải Huyền là thị kiến về Giáo Hội thời Thiên Sai và thời các Tông Đồ, không cần Đền Thờ nữa, vì Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh. Những tín hữu đích thật phụng thờ Thiên Chúa trong “thần khí và sự thật”.

Ga 14: 23-29
Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su. Khi sắp từ giả các môn đệ, Chúa Giê-su hứa xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Ngài sẽ là Đấng Bảo Trợ của họ.

BÀI ĐỌC I (Cv 15: 1-2, 22-29)
Chương 15 sách Công Vụ thuật lại một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử Giáo Hội. Giai đoạn này được đặt trước một hiện tượng mang chiều kích rộng lớn bao la: nhiều lương dân đón nhận Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội mỗi ngày mỗi thêm đông. Hiện tượng này gây nên một phản ứng mãnh liệt từ phía vài người Ki-tô hữu gốc Do thái: phải chăng Giáo Hội bị làn sóng những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp, Xy-ri-a và Síp tràn ngập, và biến mất khỏi bối cảnh văn hóa Do thái từ đó Giáo Hội được khai sinh?

Cuộc tranh luận, khởi đi từ An-ti-ô-khi-a, được trình lên các Tông Đồ và Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Một công nghị được triệu tập vào năm 49 và thường được gọi là “Công Đồng Giê-ru-sa-lem”. Bản văn trích dẫn hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất giới thiệu hoàn cảnh nẩy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2) và phần thứ hai tường thuật những nghi quyết của “Công Đồng” được trình bày theo hình thức Thư Chung (15: 22-29). Giữa hai phần này diễn tiến những cuộc tranh luận mà đoạn trích dẫn hôm nay không thể đưa vào đây, vì độ dài của nó, do khuôn khổ của một bài đọc Chúa Nhật. Để hiểu rõ hơn những nghị quyết tối hậu của Công Đồng, đối tượng của đoạn trích hôm nay, chúng ta phải tóm lược những tranh luận này. Công Đồng Giê-ru-sa-lem được định vị ở giữa sách Công Vụ, như đánh dấu khúc quanh của Giáo Hội: khởi đi từ giây phút này, Giáo Hội “chuyển sang lương dân”, hay ít ra “mở rộng đường cho lương dân đón nhận đức tin” (Bài Đọc I Chúa Nhật vừa qua).

1. Hoàn cảnh nảy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2)
Chung chung người ta ghi nhận vào năm 49 xảy ra một cuộc tranh luận tại An-ti-ô-khi-a mà thánh Lu-ca đặt ngay liền sau cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất, và đa số các nhà chuyên môn đồng hóa cuộc tranh luận này với cuộc tranh luận mà thánh Phao-lô kể ra trong thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl 2: 1-10).

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không những đối đầu với những người Do thái cứng lòng tin trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của mình, nhưng hai ngài còn phải tranh luận với những Ki-tô hữu gốc Do thái xuất thân từ phái Pha-ri-sêu, từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ô-khi-a nữa. Những người Ki-tô hữu này đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân:  “Nếu anh em không chịu phép cắt bì, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15: 1), nghĩa là phải trở thành Do thái giáo qua phép cắt bì rồi mới được phép trở thành Ki-tô hữu qua phép rửa. Theo họ, niềm tin vào Chúa Giê-su không thay thế Luật Mô-sê, đơn giản đức tin được thêm vào Luật Mô-sê.

Người ta hiểu những lời tuyên bố như thế gây hoang mang như thế nào trong các cộng đoàn kết nạp nhiều người Ki-tô hữu gốc lương dân mà không thông qua phép cắt bì, những người mà các nhà truyền giáo vừa mới tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Phúc Âm hóa thế giới dân ngoại. Hơn nữa, luật không cho phép đồng bàn với người không cắt bì. Vậy làm thế nào có thể đồng bàn với các Ki-tô hữu không cắt bì khi tham dự nghi lễ Bẻ Bánh (bàn tiệc Thánh Thể)? Vào thời ấy lễ Bẻ Bánh được tổ chức như một bữa ăn đích thật.

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba “chống đối ra mặt và tranh luận khá gay go với những người đó”. Cuối cùng, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a “bèn quyết định cử ông Phao-lô và ông Ba-na-ba và vài người trong nhóm họ đi Giê-ru-sa-lem”. Thật đáng chú ý, những người Ki-tô hữu gốc lương dân này nhận ra quyền tối thượng của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và muốn đệ trình vấn đề của mình lên “các Tông Đồ và các kỳ mục”. Thánh Ép-ra-em nhận định: “Nếu không có sự đồng ý của các Tông Đồ, không ai tự ý thay đổi bất cứ điều gì mà các ngài chưa cho phép... Thánh Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem để giải quyết việc loại bỏ Lề Luật và phép cắt bì trước sự hiện diện của các môn đệ: nếu các Tông Đồ không ủng hộ thì thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không thể nào loại bỏ chúng” (Armenian Commentary, ad loc.).

2. Những tranh luận tại Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 5-21):
Trong Công Đồng Giê-ru-sa-lem, thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô tranh luận gay gắt với những người chủ trương Do thái hóa Ki-tô giáo. Hai ngài đã hiểu rằng vấn đề thật sự không đơn giản là phép cắt bì, nhưng thậm chí tương lai của Giáo Hội bị đặt ra trước một sự chọn lựa then chốt: hoặc hy sinh những Ki-tô hữu gốc lương dân vì tuân giữ nghiêm nhặt những quy định Do thái giáo, hay hy sinh những Ki-tô hữu gốc Do thái chủ trương nghiêm nhặt vì Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận lương dân.

A - Diến từ của thánh Phê-rô (15: 7-12)
Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ và Giáo Hội, lên tiếng đầu tiên. Dựa trên kinh nghiệm ở Xê-da-rê ở đó thánh nhân đã chứng kiến việc Chúa Thánh Thần xuống trên các lương dân (viên đại đội trưởng Rô-ma và gia quyến của ông), thánh Phê-rô công bố, theo biểu thức rất Phao-lô rồi, rằng ơn cứu độ do đức tin, cùng với ân sủng Chúa Giê-su. Vì thế, không nên “quàng vào cổ” những người Ki-tô hữu gốc lương dân này “một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi”. Cái ách này đó là luật Mô-sê cùng với tất cả những quy định của luật. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuật lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa lương dân trong cuộc hành trình truyền giáo của họ.

B - Diễn từ của thánh Gia-cô-bê (15: 13-21)
Tiếp đó, thánh Gia-cô-bê, thủ lãnh cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, hoàn toàn tán thành với thánh Phê-rô trên “nội dung” của vấn đề, nhưng đề nghị một sự dàn xếp trong những hình thức để những Ki-tô hữu gốc Do thái không cảm thấy mình bị thiệt thòi. Lời đề nghị của thánh Gia-cô-bê được gợi hứng từ các truyền thống hiếu khách đã được tuân giữ bao đời trong dân Ít-ra-en. Lề Luật truyền phải tiếp đón những ngoại kiều và những người nhập cư và ca ngợi lòng bao dung đối với những người này; bù lại, Luật yêu cầu những ngoại kiều và nhập cư được ân cần tiếp đón như thế phải tôn kính ngày sa-bát và tuân giữ vài quy định liên quan đến việc cưới hỏi và thức ăn. Thánh Gia-cô-bê lấy lại những quy định truyền thống hiếu khách này, nhưng giảm thiểu hết mức chỉ giữ lại bốn điều cấm: những Ki-tô hữu gốc lương dân không được ăn của cúng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết (đây là những điều mà người Ki-tô hữu gốc Do thái ghê tỡm nên không muốn đồng bàn với người Ki-tô hữu gốc lương dân). Sau cùng cấm gian dâm mà bất cứ nền văn hóa nào cũng lên án.

Như vậy các Ki-tô hữu gốc lương dân cảm thấy an lòng, vì Công Đồng không còn kể ra việc cắt bì như điều kiện tiên quyết nữa, nhưng chỉ đòi hỏi họ phải kiêng cử vài thức ăn để có thể đồng bàn với anh chị em Ki-tô hữu gốc Do thái. Về phía những Ki-tô hữu gốc Do thái, họ dễ dàng nhận ra ở nơi những kiêng cử này thật ra truyền thống đã đòi buộc những ngoại kiều sống ở Ít-ra-en phải tuân giữ. Bù lại, họ phải rộng mở tấm lòng đón tiếp tất cả những người Ki-tô hữu gốc lương dân, những anh chị em có chung niềm tin với họ.
Qua sự nhượng bộ đòi hỏi cả hai phía, thánh Gia-cô-bê hy vọng rằng nhờ đó Hội Thánh giữ được mối giao hảo hài hòa trong cuộc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân, khi cả hai đều tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau. Đây cũng là nguyên tắc chung cho các nhà truyền giáo sau này đến với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.

3. Thư Chung (15: 22-29)
Công Đồng nhất trí gởi Thư Chung cho các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân tại An-ti-ô-khi-a, miền Xy-ri và Ki-li-ki-a để trấn an họ. Thư Chung này chứa đựng những nghị quyết của Công Đồng theo thể loại thư tín vào thời đó khi bắt đầu: “Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a” (15: 23) và kết thúc: “Chúc anh em an mạnh” (15: 29). Thư Chung được trao gởi cho hai trong số các ngôn sứ có uy tín nhất trong Hội Thánh, ông Giu-đa và ông Xi-la.

Công Đồng trước tiên khiển trách những Ki-tô hữu Giu-đê, chỉ vì sáng kiến của riêng mình, gây nên tình trạng hoang mang trong cộng đoàn An-ti-ô-khi-a (15: 24); tiếp đó, ca ngợi lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba (15: 25-26), đây là cách thức công nhận đề tài về ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không nhờ phép cắt bì. Hai ông Giu-đa và Xi-la được cử đi trình bày trực tiếp những nghị quyết của Công Đồng, nhưng chính Phẩm Trật Giáo Hội trình bày và công bố sắc lệnh khắp các miền có nhiều anh chị em Ki-tô hữu gốc lương dân.

Cuối cùng, Công Đồng kết thúc với lời quả quyết rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Biểu thức này rất quý sẽ được những người kế vị thánh Phê-rô lập lại. Qua biểu thức này, Công Đồng ý thức rằng chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn những nghị quyết của các ngài và phân tích cho đến cùng chính Thiên Chúa đã quyết định vấn đề. Đồng thời, các Tông Đồ khẳng định quyền tối thượng của các ngài trong Hội Thánh. Quyền này các ngài nhận từ Đức Giê-su và được Thánh Thần trợ lực. Khi khẳng định rằng không áp đặt bất kỳ gánh nặng nào trên những Ki-tô hữu gốc lương dân, Công Đồng tuyên bố rằng người Ki-tô hữu gốc lương dân không bị đòi buộc cắt bì và tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng chỉ đòi buộc họ tuân giữ vài lệnh cấm chủ yếu liên quan đến thức ăn. Đường lối khôn ngoan của Công Đồng làm hài lòng cả những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân.

Tưởng nên nhắc lại rằng vấn đề thức ăn còn trầm trọng hơn vấn đề cắt bì, vì có liên quan đến việc đồng bàn. Những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn còn tuân giữ những điều cấm kỵ của Luật Mô-sê, họ không thể chia sẻ bữa ăn với những Ki-tô hữu gốc lương dân. Ở An-ti-ô-khi-a, hai cộng đoàn dùng bữa tách riêng ra. Vì thế, những quyết định của thánh Gia-cô-bê nhắm đến giải quyết vấn đề này, việc cùng ăn cùng uống với nhau là một yếu tố quan trọng để tạo nên một sự hiệp nhất giữa những Ki-tô hữu có những nguồn gốc khác nhau, nhất là cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh.

BÀI ĐỌC II (Kh 21: 10-14, 22-23)
Chương 21 này, chương áp chót của sách Khải Huyền, tường thuật hai thị kiến. Thị kiến thứ nhất, chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, miêu tả Giáo Hội khải hoàn, được sánh ví với một hôn thê điểm trang lộng lẫy chuẩn bị đón phu quân của mình là Đức Ki-tô trong một giao ước mới, hoàn hảo và vĩnh viễn.

Thị kiến thứ hai, chúng ta đọc hôm nay, miêu tả Giáo Hội của các Tông Đồ, nhưng nhấn mạnh rằng đây cũng là một Giáo Hội: Giáo Hội xuống từ trời, vì Giáo Hội này phát xuất từ Thiên Chúa và chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Những đặc tính của Giáo Hội này được gợi lên bởi nhiều hình ảnh nối tiếp, khá dễ dàng giải mã.

1. Một ngọn núi cao hùng vĩ:
“Trong một thị kiến, tôi là Gioan, tôi được thiên thần đem lên một ngọn núi cao hùng vĩ”. Trong Cựu Ước, thành thánh Giê-ru-sa-lem thời thiên sai được các ngôn sứ định vị trên một ngọn núi cao, biểu tượng của sự siêu việt như Is 2: 2: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên vững vượt đỉnh các non cao, vươn mình lên trên hết mọi ngọn đồi”; hay Ed 17: 22: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi”.

2. Giáo Hội chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa:
 Khía cạnh bên ngoài nổi bật nhất của Thành Thánh, chính là sự chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Trước đây cũng chính với viên đá quý chiếu sáng mà ngai Thiên Chúa được gợi lên: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vòng trông giống như ngọc bích” (Kh 4: 3). Ở thị kiến này, vinh quang của Thành Thánh được sánh ví với sự chiếu sáng của viên đá quí tuyệt vời, như vân thạch lưu ly. Điều này muốn nói lên sự thánh thiện của Giáo Hội và chỉ ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, điều này sẽ được củng cố ở câu sau cùng: “Thành chẳng cần đến mặt trời mặt trăng chiếu sáng: đã có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đuốc chiếu soi”.

3. Những đặc tính của Giáo Hội:
Việc miêu tả thánh thánh Giê-ru-sa-lem được gợi hứng từ ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi biết tin thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá hủy, ngôn sứ hình dung ra việc tái thiết thành thánh Giê-ru-sa-lem trong tâm trí của mình: thành sẽ hoàn hảo, nó sẽ vuông vức… (Ed 48). Thánh Gioan cũng miêu tả thành Giê-ru-sa-lem của các Tông Đồ vào lúc thành thánh không còn nữa, thành cũng như Đền Thờ đã bị quân đội Rô-ma tiêu hủy vào năm 70 sau Công Nguyên. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem đích thật từ nay là Giáo Hội. Giáo Hội này thì “phổ quát”: mở ra cho hết mọi dân nước, nó có các cửa ở bốn phương trời. Giáo Hội này là của các Tông Đồ: nền móng của nó có ghi tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

Giáo Hội này là dấu chỉ “sự hiện diện của Thiên Chúa” ở giữa lòng nhân loại (x. Ed 48: 35). Thiên Chúa hiện diện mà không còn cần đến Đền Thờ bằng đá, do tay người phàm xây dựng. Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh; đền thờ Thiên Chúa là “thân thể của Đức Ki-tô”. Thiên Chúa trực tiếp ngự giữa nhân loại. Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 19-24).

Giáo Hội này còn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa vì có “Con chiên là ngọn đuốc chiếu soi” như sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a: “Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh huy hoàng của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60: 19).

Viễn cảnh là thời cánh chung như phần cuối của sách Khải Huyền này, nhưng nó không chỉ là thời cánh chung. Đừng mất đi tầm nhìn về ý định của tác giả: khích lệ những Ki-tô hữu trong cơn thử thách. Sự hiện diện của Thiên Chúa đem lại sự yên lòng cho Giáo Hội chiến đấu. Đức Ki-tô – Con Chiên – đang sống ở bên cạnh các tín hữu của Ngài, trong các bí tích và qua ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.

TIN MỪNG (Ga 14: 23-29)
Chúng ta tiếp tục đọc và suy niệm Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su với các môn đệ Ngài trong bữa Tiệc Ly. Chúa Giê-su sắp rời bỏ các ông mà ra đi, vì thế các ông xao xuyến và buồn phiền. Chúa Giê-su trấn an các ông khi loan báo cho các ông biết rằng sự hiện diện hữu hình của Ngài sẽ được nối tiếp với sự hiện diện vô hình của Ngài ở nơi sự hiện của Chúa Thánh Thần: Ngài là Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ; Ngài là Bậc Tôn Sư nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu biết sâu xa về Chúa Giê-su; và Ngài là bình an và niềm vui mà Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ.
Thần học trong bản văn trích dẫn hôm nay rất đậm đặc vì mở ra cho thấy tác động ân sủng trong đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu; cũng rất đậm đặc không kém vì ở đây tình yêu được nêu đích danh lần đầu tiên là căn nguyên của sự trung thành với Lời và là con đường dẫn đến Chúa Cha; còn đậm đặc hơn nữa khi gợi lên những hoa trái thần khí mà sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng các môn đệ đem lại cho họ ngay chính trong cuộc sống tại thế này.

1. Chúa Thánh Thần, Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ (14: 22-24):
Câu hỏi của ông Giu-đa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14: 22) giúp Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn chủ đề về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị trong lòng của các môn đệ. Chỉ người nào bày tỏ tấm lòng yêu mến của mình đối với Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ các điều răn của Ngài, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu mến và “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (14: 23). Động từ “ở lại”, một trong những động từ chủ đạo của Tin Mừng Gioan, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, lòng mến mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài thực hành những huấn lệnh Tin Mừng, bên trong tăng cường mối quan hệ với Đức Giê-su. Lúc đó người tín hữu mới có thể nghiệm được Chúa Cha và Chúa Con đồng hiện diện trong lòng mình. Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con và hiệp thông tình yêu của các môn đệ với Tình Yêu Thiên Chúa: “Thật vậy, không thể đạt đến một sự hiểu biết trung thực nào về Mặc Khải Ki-tô giáo nếu không có tác động của  Đấng Bảo Trợ. Lý do là vì sự hiệp thông nơi Thiên Chúa luôn luôn hàm chứa mối quan hệ giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (“Verbum Domini”, 50).

2 - Chúa Thánh Thần, “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ (14: 25-26)
Chúa Thánh Thần còn là “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu Chúa Giê-su: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26). Với tư cách là Bậc Tôn Sư, Chúa Thánh Thần nhắc lại và khai lòng mở trí cho các ông để các ông hiểu cách thấu đáo những lời Chúa Giê-su đã nói và những việc Chúa Giê-su đã làm. Chính ở nơi vai trò này mà chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần bảo vệ Giáo Hội khỏi sai lạc và gìn giữ Giáo Hội luôn luôn gắn bó một lòng một ý với Chúa Giê-su. Rõ ràng, các môn đệ sẽ phải cần đến sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong biến cố Hiện Xuống mới có thể nắm bắt được chiều sâu của sứ điệp này.

Ở đây, chúng ta chạm đến tuyệt đỉnh của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào Chúa Giê-su nêu lên mối quan hệ giữa Cha và Con, Ngài đều liên kết mối quan hệ này vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại (14: 20, 21, 23). Điều nầy muốn nói rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì khép kín trong chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta, đó là “những của tốt lành” theo thánh Mát-thêu (7: 11), tức là “Thánh Thần” theo thánh Lu-ca (11: 13).

Vì thế, không gì phải ngạc nhiên khi thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô xem sự hiện hữu của Thánh Thần là “Ân Ban” trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa, bởi vì Ngài là “Tình Yêu tận hiến cho nhau” trong mầu nhiệm Ba Ngôi: “Thánh Thần, theo Kinh Thánh, không chỉ là Thần Khí của Chúa Cha, cũng không chỉ là Thần Khí của Chúa Con, nhưng là của cả hai; chính vì thế Thánh Thần dạy cho chúng ta tình yêu chung nơi Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu mà qua đó hai Ngôi Vị yêu mến lẫn nhau” (De Trinitate XV, 17, 27). Với tư cách là Tình Yêu hiệp nhất trong Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận sẽ là nguyên lý hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô: “Chính vì Ngài (Thánh Thần) là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con nên các Đấng (Chúa Cha và Chúa Con) muốn chúng ta được hiệp thông với nhau và với các Ngài, nghĩa là bằng Thánh Thần, Đấng là Thiên Chúa và là Thiên Ân… Quả vậy, chính trong Thánh Thần mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và tìm thấy nơi Người niềm hoan lạc… Nhờ Thánh Thần mà Dân Thiên Chúa được quy tụ lại trong hiệp nhất” (Sermon 71, 12, 18; 12, 19; 17, 28; 20, 33). Thánh Tô-ma lấy lại tư tưởng này và dành cho Chúa Thánh Thần một vai trò đặc biệt với hai danh xưng: “Tình Yêu”“Ân Ban”. Theo thánh Tiến Sĩ Tô-ma, trong lịch sử Cứu Độ, chức năng của Chúa Thánh Thần là nối kết tất cả, đưa tất cả vào Tình Yêu Vĩnh Hằng, tức là sự Hiệp Thông Ba Ngôi.

Đức Gioan Phao-lô II nói về Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Thiên Chúa trong Hiến Tế Thập Giá của Chúa Giê-su như sau: “Chúa Thánh Thần được mặc khải và hiện diện trong mầu nhiệm Thập Giá như là tình yêu hoạt động trong thâm sâu mầu nhiệm Thập Giá, chính Ngài là nguồn sức mạnh cứu độ của thập giá Đức Ki-tô, là ân huệ trao ban sức sống mới. Trong tột cùng đau khổ trên thập giá, Thánh Thần tình yêu đến với Chúa Giê-su và rồi từ trên thập giá, Chúa Giê-su đã trao ban Thánh Thần tình yêu đó” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).

3. Chúa Thánh Thần, bình an và niềm vui Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ (14: 27-29):
Sau khi đảm bảo tối hậu với ân ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su hứa Ngài để lại cho các môn đệ sự bình an của Ngài, hay lời từ biệt (“shalom”) của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (14: 27a). Thật là mâu thuẩn biết bao, “bình an” được công bố bởi một người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Tuy nhiên, Chúa Giê-su xác định bình an mà Ngài ban cho các môn đệ không theo kiểu thế gian (14: 27b), nhưng là bình an của Ngài, đó là sự bình an được đảm bảo ở nơi việc trao ban Chúa Thánh Thần vào buổi chiều Phục Sinh khi mà Chúa Giê-su nói: “Bình an cho anh em. Hãy đón nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20: 21-22). Đây là bình an nội tâm, xuất phát từ tình sâu nghĩa nặng của Ngài với Cha Ngài. Chính từ mối tâm giao này mà Chúa Giê-su trao ban bình an cho các môn đệ Ngài, bình an mà Ngài đã đạt được sau khi đã vâng phục tận mức tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại cho đến bằng lòng chịu chết để trở nên nguồn sống cho nhân loại. Vì thế, sự bình an này không thể làm cho các môn đệ xao xuyến khi Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha, bởi vì chỉ sau khi Ngài trở về Chúa Cha, tức việc Ngài được tôn vinh, lúc đó Ngài mới có thể trao ban cho các môn đệ sự bình an đích thật của Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần. Đây là lời chứng gây xúc động nhất, như lời của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “bình an của Thiên Chúa vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).

Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha” (14: 28b). Đây cũng thật nghịch lý biết mấy, niềm vui mà Ngài mời gọi các môn đệ Ngài, những người sắp phải tuyệt vọng tận mức khi chứng kiến cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, lại là niềm vui được định vị ở trung tâm lập luận: vui vì sau khi Chúa Giê-su trở về cùng Chúa Cha, Ngài sẽ hiện diện với các môn đệ theo cách thế hiện diện mới của Ngài trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, một sự hiện diện mật thiết đến độ không một không gian và thời gian nào có thể ngăn cản Ngài hiện diện với các môn đệ.

Nhưng Chúa Giê-su biết rõ rằng vào lúc này niềm vui hiện ở ngoài tầm tay của các môn đệ Ngài; vì thế để khích lệ họ, Ngài lập lại lời hứa Ngài sẽ trở lại: “Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’”. Ngài sẽ nhắc lại lời hứa này một ít lâu sau đó: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em; không ai lấy mất được” (Ga 16: 22).  

Tác giả bài viết: Lm. Inhatio Hồ Thông