CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN
Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên B

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm B chứa đựng đề tài khôn ngoan, đề tài này ngự trị trong Bài Đọc I và Bài Đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa đối với sự khôn ngoan của phàm nhân.

Cn 9: 1-6
Trong Bài Đọc I trích từ sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan loan báo bàn tiệc Thiên Sai.

Ep 5: 15-20
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Ki-tô giáo.

Ga 6: 51-58
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, trong đó bằng những ngôn từ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: thịt và máu của Ngài. Đây là thần lương mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân trong sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Ngài, nhưng được cho là điên rồ dưới con mắt phàm nhân.

BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)
Sách Châm Ngôn là một trong những sách minh triết Cựu Ước, cũng được gọi là các sách Huấn Giáo (những lời khuyên bảo của các tiền nhân). Trường phái văn chương này xuất xứ từ nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.

Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả thường nghiệm được tích lũy qua bao nhiêu đời, nó diễn tả bằng những câu châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta thấy trào lưu này khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.

Về nguồn gốc bác học, sự khôn ngoan là những suy tư sâu sắc về cuộc sống của các bậc hiền triết, thậm chí của vua chúa nữa, như ở Ít-ra-en vua Sa-lô-môn là một bằng chứng điển hình: nhiều câu châm ngôn được gán cho vị vua này được cho là khôn ngoan bậc nhất (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua Sa-lô-môn). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương này.

1. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn:
Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn này. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn đó là, ở giữa những câu châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn đề tặng Đức Khôn Ngoan. Ở đây, Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một Bà Chúa hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa này mang tính chất thi ca. Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân với Thiên Chúa. Theo Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en, “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”. Trong Cựu Ước, sự Khôn Ngoan của Đức Chúa cũng như Thần Khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân với Thiên Chúa.

2. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi:
Trong đoạn văn được trích dẫn hôm nay, giáo huấn mà Đức Khôn Ngoan ban được sánh ví với một bàn tiệc khoản đãi cho tất cả nhưng ai muốn làm môn đệ của mình.

“Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột”: Điều này muốn nói rằng một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật; “bảy cây cột”: con số bảy là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân “hạ thú vật”, tự mình “chế rượu”“dọn bàn”, nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.

Đức Khôn Ngoan “sai các nữ tỳ ra đi”. Câu này xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh, việc sai phái các tôi tớ của mình đi thi hành sứ vụ quan trọng là hành vi của Thiên Chúa. Truyền thống sẽ xem hành vi này thậm chí là hành vi của Đấng Thiên Sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh hành vi này được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Người sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.

3. Lời mời được gởi đến hết mọi người:
 “Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố” để lời mời gọi của mình được vang lên khắp hang cùng ngỏ hẽm ngõ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời này mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi. Ở bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su cất tiếng mời gọi: “Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.

Tuy nhiên, lời mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây thơ khờ dại”. Đó là những người khao khát hiểu biết và muốn mỗi ngày được sống trong sự hiểu biết, chứ không phải là những bậc thông thái tự mãn, khép kín mình trong sự hiểu biết của riêng mình. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo rằng rồi sẽ đến ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).

Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)
Đoạn thư gởi tín hữu Ê-phê-xô được trích dẫn hôm nay thuộc chương 5, trong đó thánh Phao-lô trình bày cách sống mới mẻ mà người Ki-tô hữu đem lại. Những lời khuyên ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.

1. Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình:
Đây cốt là lời kêu mời khái quát và có tính cách khuyên bảo. Cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki-tô giáo mà thánh Phao-lô chú ý mời gọi. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, sự khôn ngoan Hy-lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki-tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết của Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.

2. Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại:
Chúng ta đừng quên rằng thánh Phao-lô viết thư này đang khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và bị quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau: “Anh em được dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là cơ hội thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki-tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội này”.

3. Chớ say sưa rượu chè:
Thánh nhân đưa ra một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra trong những bữa ăn huynh đệ của cộng đồng Ki-tô hữu. Quả thật, thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp ngay sau khi thánh nhân mong ước rằng những buổi nhóm họp phải tập trung vào việc cầu nguyện. Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần Khí với việc rượu chè say sưa.

4. Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh:
Chúng ta biết rằng những người Ki-tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập quán hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện… Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy. Nhưng các cộng đồng Ki-tô hữu đã sáng tác rất sớm các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và những lời ngợi khen chúc tụng Chúa tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.

TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Với đoạn trích Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn tất bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.

1. “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”:
Đức Giê-su công bố một lời gây sửng sốt: “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố khó lọt tai này gây phản ứng ngay tức khắc từ phía người Do thái, vốn trước đây đã nghi ngờ, nay tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.

Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Này là Mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”, được thuật lại trong các sách Tin Mừng nhất lãm. Tuy nhiên, ở đây thánh Gioan không dùng từ “sô-ma” như các sách Tin Mừng nhất lãm, mà là từ “sarsh”. Từ “sarsh” này, theo tiếng A-ram cũng như Hy-ngữ, chỉ toàn bộ con người đang sống, trong khi từ “sô-ma” chỉ một thân xác đối lập với linh hồn theo thuyết nhị nguyên của người Hy-lạp. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng từ “thịt tôi” chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Với từ “thịt tôi”, thánh Gioan thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa “Nhập Thể”“Thánh Thể” để có thể nói “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”.

2. “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”:
Đức Giê-su nhận ra thái độ kinh ngạc của thính giả. Ấy vậy, nếu như câu nói này chỉ là biểu tượng, chắc chắn Ngài sẽ đính chính, nhưng không, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”. Lời khẳng định này lại còn gây sửng sốt hơn nữa: Đức Giê-su không chỉ nói đến “thịt của Ngài”, nhưng còn “máu của Ngài” nữa. Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được, nhưng còn gây kỳ chướng hơn nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống. Trong các hy lễ, máu được hoàn toàn dâng tiến cho Thiên Chúa.

Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông dụng “thịt và máu” chỉ toàn thể con người, một phàm nhân, như Đức Giê-su nói với thánh Phê-rô sau khi thánh nhân tuyên xưng đức tin: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát cặp “thịt và máu” này theo văn mạch, chúng ta nhận ra rằng khi gợi lên máu sẽ đổ ra để chúng ta uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để chúng ta ăn, Đức Giê-su loan báo rằng bàn tiệc Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Sọ.

Ngoài ra để tránh việc hiểu lầm bàn tiệc Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng kiểu nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật có nguồn gốc thần linh đến trên mây trời trong sách Đa-ni-en. Như vậy, thịt và máu mà Ngài ban tặng để chúng ta ăn và uống ngõ hầu có sự sống đời đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước thính giả, mà là thịt và máu của Đấng đã chết, sống lại và nay đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chính vì thế thịt và máu mà Người ban tặng sẽ là nguồn sống đời đời cho nhân loại.

3. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”:
Toàn bộ phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa này được lập đi lập lại hầu như ở mỗi câu. Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha Hằng Sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài chuyển thông cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là một sự hiệp thông mật thiết đến mức không gì có thể sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ tròn đầy của Ngài với Chúa Cha: “Như Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”, và mời gọi các môn đệ đi vào trong mối hiệp thông tròn đầy này: “Anh em hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”. Thế nên, động từ “ở trong” là một trong những động từ thánh Gioan rất tâm đắc, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của Vương Quốc Thiên Chúa.

Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban, một lần nữa Ngài củng cố lời hứa ban sự sống phục sinh của Người. Như vậy, Đức Giê-su mạnh mẻ khẳng định ý nghĩa cuối cùng của “Bánh Hằng Sống”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật sự kiện Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, nhưng trong chương 6 này, thánh ký muốn chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm vĩ đại này, còn hơn cả các tác giả Tin Mừng nhất lãm có thể làm trong những bài trình thuật “Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể” của các ngài.  

Tác giả bài viết: Inhatio Hồ Thông