CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN A
- Thứ sáu - 13/10/2017 21:16
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Is 25: 6-9
Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn được trích dẫn là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.
1.Viễn cảnh thời Cánh Chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc đãi muôn dân một bữa tiệc” (Is 25: 6a)
“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5).
Cũng chính vị ngôn sứ này nhắc lại:
“Vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (Is 24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem” (Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.
Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6b).
Cho đến lúc đó, trong các hy lễ, “thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn bởi vì:
“Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,
và tấm màn trùm lên muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần
Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ
trên khuôn mặt mọi người,
và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch
nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy” (Is 25: 7-8)
Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
3.Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)
Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độ” (25: 9a)
và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ:
“Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (25: 9b).
Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).
Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: thánh nhân múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.
Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: vì bất trung với sứ mạng của mình, dân được tuyển chọn sẽ được thay thế bởi lương dân. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: Dụ ngôn “tiệc cưới” nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1.Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và sát hại các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.
“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.
Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Như vậy, toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.
Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2.Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)
Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).
Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.
Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn được trích dẫn là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.
1.Viễn cảnh thời Cánh Chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc đãi muôn dân một bữa tiệc” (Is 25: 6a)
“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5).
Cũng chính vị ngôn sứ này nhắc lại:
“Vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (Is 24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem” (Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.
Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6b).
Cho đến lúc đó, trong các hy lễ, “thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn bởi vì:
“Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,
và tấm màn trùm lên muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần
Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ
trên khuôn mặt mọi người,
và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch
nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy” (Is 25: 7-8)
Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
3.Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)
Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độ” (25: 9a)
và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ:
“Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (25: 9b).
Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).
Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: thánh nhân múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.
Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: vì bất trung với sứ mạng của mình, dân được tuyển chọn sẽ được thay thế bởi lương dân. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: Dụ ngôn “tiệc cưới” nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1.Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và sát hại các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.
“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.
Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Như vậy, toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.
Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2.Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)
Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).
Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.