CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN
- Thứ năm - 01/11/2018 08:55
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa”, trong khi Tân Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa và yêu người”.
Đnl 6: 2-6
Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, chứa đựng lời tuyên tín nổi tiếng của Ít-ra-en: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”.
Dt 7: 23-28
Thư gởi tín hữu Do thái khẳng định chức tư tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví hơn chức tư tế của Cựu Ước.
Mc 12: 28-34
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với một kinh sư trong đó Đức Giê-su hiệp nhất “Mến Chúa” với “yêu người”.
BÀI ĐỌC I (Đnl 6: 2-6)
Bản văn này, đỉnh cao sứ điệp của sách Đệ Nhị Luật, giải thích giới răn thứ nhất của Thập Giới, được đặt trên môi miệng của ông Mô-sê.
1. Mến Chúa đối với Ít-ra-en:
Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa duy nhất mà con người không chỉ kính sợ nhưng còn phải yêu mến hết lòng hết dạ và hết sức nữa. Đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã bảy tỏ cho dân Ngài, mỗi người phải trọn tình vẹn nghĩa với Thiên Chúa của mình.
Dân Chúa chọn đã hiểu sự mới mẽ tận mức của giới răn này đem lại cho tôn giáo của họ một tính chất đặc thù. Họ đã tuyên xưng giới răn này và đặt giới răn này vào trung tâm của kinh nguyện được gọi kinh Shê-ma (“Nghe đây”), mà suốt nhiều thế kỷ qua những tín hữu đạo hạnh của Ít-ra-en thường ngày đọc vào ban sáng và ban chiều. Vào thời đó, lời tuyên tín này được tôn kính đến mức người ta ghi trên những mảnh vải và cuộn vào hộp kinh để mang trên cánh tay hay trên trán. “Mến Chúa” phải được bày tỏ qua thái độ “kính sợ Chúa”, tuân giữ các giới răn của Ngài và bận lòng thông truyền đức tin.
2. Kính sợ Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài:
Kiểu nói Kinh Thánh: “Kinh sợ Chúa”, không có nghĩa sự sợ hãi; đây là thái độ tôn kính đầy niềm tin, khi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa. Tuân giữ các giới răn là bổn phận xuất phát từ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Sách Đệ Nhị Luật được trình bày như bài giáo lý về Giao Ước. Để đáp trả sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Ngài, dân Ít-ra-en phải trung thành với Thập Giới, nền tảng của Giao Ước. Thiên Chúa đã hứa cho dân du mục này một miền đất trong đó họ sẽ được an cư lạc nghiệp và trở thành một quốc gia vĩ đại. Thay vì sa mạc khô cằn nắng cháy, Thiên Chúa đã hứa cho họ “một miền đất tràn đầy sữa và mật ong” với điều kiện là tuân giữ các giới răn của Ngài.
3. Thông truyền đức tin:
Tầm quan trọng của việc giáo dục tôn giáo trong gia đình là lời kêu gọi khẩn thiết của tác giả sách Đệ Nhị Luật. Lời kêu gọi này được lập đi lập lại nhiều lần (Đnl 4: 9; 6: 20; 32: 7). Tác phẩm của ông là lời cảnh giác thường hằng coi chừng những nguy hiểm của môi trường ngoại giáo chung quanh. Việc gìn giữ các truyền thống và bận lòng thông truyền đức tin thuộc vào những đòi hỏi căn bản tất yếu đối với sự tồn vong của dân Ít-ra-en.
Sách Đệ Nhị Luật thấm đẫm tính nhân bản cũng như tính siêu việt. Thiên Chúa mà sách trình bày là một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài, dân mà Ngài bày tỏ lòng trìu mến và xót thương. Sách Đên Nhị Luật mang dấu ấn giáo huấn của các ngôn sứ lớn như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, đồng thời sách chuẩn bị sứ điệp của Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Dt 7: 23-28)
Sau khi đã chứng minh Đức Ki-tô đã sở hữu những phẩm trật tư tế - liên đới với loài người và được Thiên Chúa đặt làm tư tế – tác giả sẽ cho thấy những nét khác biệt giữa chức tư tế của Đức Ki-tô và chức tư tế của Cựu Ước. Tác giả nhắm đến tác vụ trung gian của Đức Ki-tô phục sinh.
1. Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời:
Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời; Ngài là Đấng trung gian hoàn hảo vì “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến gần Thiên Chúa”. Vị thượng tế Do thái mỗi năm một lần bước vào nơi cực thánh để cầu bầu cho dân vào ngày lễ Xá Tội, còn Đức Giê-su, “thật ra, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ”.
2. Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn:
Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn. Nếu trong cuộc sống tại thế, Ngài đã tự mình liên đới với những người tội lỗi, từ nay Ngài “được nâng cao vượt các tầng trời”, nghĩa là dự phần vào tính siêu việt của chính Thiên Chúa. Trái lại, các tư tế theo luật Mô-sê, những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, phải dâng lễ tế hy sinh, “trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội thay cho dân”.
3. Đức Giê-su được đặt làm tư tế với lời thề:
Cuối cùng, một lần nữa tác giả trích dẫn Tv 110 để nhấn mạnh phẩm trật tư tế đặc biệt của Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thượng Tế với lời thề, còn các tư tế theo luật Mô-sê thì không có lời thề. Quả thật, Thánh Vịnh nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Bản văn này đã đến sau này, nghĩa là sau ông Mô-sê, hàm chứa một giai đoạn cao cả trong Mặc Khai và loan báo một mức độ hoàn hảo, mà Đức Giê-su thực hiện với tư cách là Con Thiên Chúa. Tác giả ngỏ lời cách tinh tế với các Ki-tô hữu gốc Do thái trong số họ chắc chắn có những tư tế của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
TIN MỪNG (Mc 12: 28-34)
Thánh Mác-cô cũng như thánh Mát-thêu đặt cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một kinh sư này vào những ngày Đức Giê-su giảng dạy tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc đối thoại này liên quan đến điều răn nào là quan trọng nhất trong số 613 giới luật Cựu Ước (365 điều cấm và 248 điều buộc), một đề tài thường được đặt ra cho các kinh sư Do thái. Câu trả lời của Đức Giê-su phối hợp hai câu trích dẫn Cựu Ước: Đnl 6: 4-5 và Lv 19: 18, quả thật nhấn mạnh tính chính thống lời dạy của Ngài như một kinh sư Do thái và minh chứng Ngài đi cho đến tận ngọn nguồn của sự việc. Cuộc đối thoại này quan trọng không chỉ vì sự độc đáo của nó mà còn vì điểm nhấn của nó trên những tư thế nội tâm.
Bản văn này có thể chia làm bốn phần được cấu trúc theo hình thức “đối xứng xen kẻ” như sau:
A-Vị kinh sư hỏi (12: 28).
B-Đức Giê-su trả lời (12: 29-31).
A’-Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33).
B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34).
A - Vị kinh sư hỏi (12: 28):
28. “Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau”: Câu này được dùng để nối kết cuộc tranh luận trước đó với cuộc đối thoại theo sau. Ông kinh sư này là một trong những người chứng kiến cuộc tranh luận của Đức Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại.
- “Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi”: Khi thấy Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc về cuộc sống mai hậu cách khúc chiết, mạch lạc dựa trên nền tảng Kinh Thánh, vì thế ông chân thành muốn hỏi Đức Giê-su để mong gặp thấy một giải đáp. Thái độ thành tâm thiện chí muốn hiểu biết của ông khiến cuộc nói chuyện thành một cuộc học hỏi chân thành và cởi mở hơn là một cuộc tranh luận (khác với Mt 22: 35 và Lc 10: 25).
- “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”: Vị kinh sư nêu câu hỏi nầy không có bất kỳ ác ý nào. Câu hỏi của ông thật sự phản ảnh nỗi bận lòng của trường phái kinh sư vào thuở đó.
Các kinh sư đều xem lề luật là ý muốn của Thiên Chúa, vì thế, thực thi lề luật chính là trung thành với Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng tìm cách cách mở rộng lề luật cách vô hạn định ra thành muôn vàn điều luật và quy tắc để làm thế nào lề luật có thể được thực thi trong mọi cảnh huống cuộc sống của dân Chúa chọn. Còn khuynh hướng thứ hai thì cố tìm cách thu gọn lề luật vào trong một câu cô động cái tinh thần cốt yếu của lề luật.
Thật ra, cả hai khuynh hướng: mở rộng cũng như thu gọn lề luật, vẫn thường hằng hiện diện trong những cuộc tranh luận giữa các kinh sư với nhau. Có những người tin trong luật có những vấn đề nặng nhẹ khác nhau, có nhiều nguyên tắc đáng xem là quan trọng hơn mà người ta phải lãnh hội và thi hành trước nhất. Nhưng có nhiều người khác cực lực chống lại, họ chủ trương rằng một nguyên tắc nhỏ nhặt cũng có tính bắt buộc y như một nguyên tắc quan trọng nhất, vì thế cố phân biệt chỗ khác nhau tương đối giữa chúng, là điều vô cùng nguy hiểm.
Khi hỏi Đức Giê-su như thế, vị kinh sư chân thành muốn biết trong số 613 điều luật Cựu Ước (gồm 365 điều cấm và 248 điều buộc) điều răn nào Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước và làm cách triệt để.
B - Đức Giê-su trả lời (12: 29-31)
29. “Điều răn đứng hàng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất…’”: Đức Giê-su trích dẫn Đnl 6: 4-5, đây là bản văn đầu tiên trong số ba bản văn (Đnl 6: 4-9; 11: 13-21; Ds 15: 37-41) đã trở thành kinh “Shê-ma” (“Nghe đây”) được xem như kinh “Tin Kính” của Do thái giáo và được những người Do thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần. Giới răn mến Chúa phát xuất từ bản tính của Người là Thiên Chúa duy nhất. Bổn phận mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” không nhằm quy chiếu đến những phần riêng biệt của con người, nhưng nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Chúa tận mức, một cách tuyệt đối. Kinh Shê-ma được chép lại trên một tấm vải nhỏ cuộn vào một hộp nhỏ bằng da mà người Do thái ngoan đạo đeo trên trán và trên cườm tay khi cầu nguyện như nhắc nhở tín điều của tôn giáo mình.
31. “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”: Dù chỉ được hỏi một điều răn, Đức Giê-su nói thêm điều răn thứ hai khi trích dẫn Lv 19: 18b (x. Rm 13: 9; Gl 5: 14; Gc 2: 8). Khi trích dẫn câu này, Chúa Giê-su sửa đổi một điểm. Trong nguyên văn, “người thân cận” được giới hạn chỉ trong vòng người Do thái chứ không bao gồm dân ngoại như câu mở đầu của huấn lệnh này cho thấy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19: 18a). Nhưng trong câu trích dẫn của Chúa Giê-su, yêu “người thân cận” phải bao gồm với hết mọi người và đạt tới mức độ cao nhất như yêu chính mình: “thương người như thể thương thân”, vì theo lẽ tự nhiên, ai nấy đều quý trọng, yêu thương bản thân hơn người khác.
Giáo Huấn của Đức Giê-su mang tính mới mẽ khi Người ghép chung hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” vào với nhau. Trước đó, chưa có một kinh sư nào làm như vậy. Trong bản văn của thánh Mát-thêu, điều răn “Yêu người” đồng nhất với điều răn “Mến Chúa”: “Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy” (Mt 22: 39); còn trong bản văn của thánh Mác-cô, hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” được đặt bên cạnh để chuẩn bị cho việc lượng giá chúng ngang bằng giá trị: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12: 31). Trong Tân Ước, lời giải thích về “Mến Chúa” và “Yêu người” của thánh Gioan là hay nhất: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’” (1Ga 4: 20).
A’ - Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33):
32. “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng”: Vị kinh sư này tán đồng câu trả lời của Đức Giê-su và bình phẩm câu trả lời của Người mà không có bất kỳ hậu ý nào về sự thù ghét hay châm biếm. Thật ra, vị kinh sư chỉ lập lại hai câu Kinh Thánh Chúa Giê-su đã trích dẫn, với từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn.
- “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác”: Trước hết, ông nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa.
33. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu mến người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”: Rồi, ông kết luận rằng “mến Chúa và yêu người” phải được coi trọng hơn mọi hy lễ. Lời này của vị kinh sư khiến chúng ta liên tưởng đến Hs 6: 6 và 1Sm 15: 22.
Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không cố ý khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị hủy bỏ, nhưng đã trở nên tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê phán nền phụng tự Đền Thờ như thế (1Sm 15: 22; Tv 51: 20t; 40: 7; Cn 21: 3), đặc biệt với các ngôn sứ như ngôn sứ Hô-sê: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6: 6; x. Is 1: 11-17).
Vì thế, không cần phải giải thích lời của ông như lên án nền phụng tự Đền Thờ. Trong trật tự của ông, mến Chúa và yêu người là những nguyên tắc hàng đầu của nền phụng tự Đền Thờ, là linh hồn của mọi hy lễ dâng tiến Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây, một nhà thần học Do thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
B’ - Đức Giê-su khen ngợi (12: 34):
34. “Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy”: Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su thường có cái nhìn về giai cấp lãnh đạo Do thái rất tiêu cực, nhưng ở đây Người nhận định câu trả lời của vị kinh sư này rất tích cực.
- “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”: Còn hơn tương lai, ở đây Nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay và xem ra có một chiều kích không gian. Việc ông hiểu đúng điều gì là quan trọng trong lề luật Cựu Ước đặt ông gần với Nước Thiên Chúa đang đến và chuẩn bị ông đón nhận nước đó một cách thích đáng (x. 10: 13-16).Ẩn sau những hỏi đáp này, chính là cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giê-su với một người kinh sư chân thành cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào.
- “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa”: Câu này chuẩn bị cho câu chuyện tiếp theo sau, trong đó Đức Giê-su chất vấn các kinh sư về chân tính của Đấng Mê-si-a.