ĐỨC MA-RI-A, MẸ THIÊN CHÚA
- Chủ nhật - 27/12/2020 19:59
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Khi tôn vinh Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể.
Lễ kính trọng thể “Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” có gốc tích rất lâu đời và được phổ biến trên khắp thế giới. Trong lịch canh tân Phụng Vụ, lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa này được cử hành vào ngày mồng một tháng giêng, trùng với ngày bát nhật Giáng Sinh, ngày kính nhớ việc cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi Giê-su, nhưng cũng trùng với ngày Tân Niên, ngày đầu năm mới cầu cho hòa bình thế giới.
Đức Phao-lô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy nay được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rô-ma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Ma-ri-a góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước vị cao quý đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (“Marialis Cultus”, 5).
-Ds 6: 22-27
Những lời chúc lành của tư tế nêu bật sự hiện diện thi ân và giáng phúc của Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống và phúc lành. Nguyện xin Thiên Chúa đoái thương nhìn đến mà ban ân sủng và bình an, Đây là ba hồng ân tóm gọn mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn. Trong biến cố truyền tin, sứ thần chào Đức Trinh Nữ Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (1: 28).
-Gl 4: 4-7
Trong đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khẳng định với chúng ta rằng chúng ta thực sự là nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Ngài là Con Thiên Chúa được sinh ra làm con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
-Lc 2: 16-21
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su mà Đức Ma-ri-a sinh ra trong máng cỏ là Cứu Chúa của mình.
BÀI ĐỌC I (Ds 6: 22-27)
Trong văn hóa Ít-ra-en, chúc lành không chỉ dành riêng cho giới tư tế. Tất cả những ai có quyền đều có thể chúc lành cho những người dưới quyền, chẳng hạn như người cha chúc lành cho con cái (St 27), anh em trai chúc lành cho chị em gái (St 24: 60), nhà vua chúc lành cho dân chúng (2Sm 6: 18; 1V 8: 55), tư tế chúc lành cho các tín hữu (Lv 9: 22).
Trong đoạn trích Dân Số này, “những lời chúc lành của tư tế” nêu bật sự hiện diện thi ân giáng phúc của Thiên Chúa, Ngài là nguồn mạch của mọi phúc lành. Tư tế hành xử chỉ như người trung gian: ông kêu cầu Danh Đức Chúa, Đấng chúc lành cho con cái Ít-ra-en (6: 27). Đây là một trong những đoạn văn đẹp nhất của Ngũ Thư, về phương diện văn chương và thần học.
Đây là những lời chúc lành cổ kính nhất mà Kinh Thánh còn bảo tồn cho chúng ta. Những lời chúc lành này có nội dung giống với vài Thánh Vịnh, như:
“Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời
trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31: 17)
hay:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con” (Tv 67: 2).
Trong đoạn trích Dân Số này, những lời chúc lành, được các tư tế sử dụng trong phụng vụ Đền Thờ, gồm ba lời khẩn nguyện, mỗi lời khẩn nguyện đều bắt đầu với danh xưng Đức Chúa. Danh Thiên Chúa được kêu cầu ba lần bảo đảm với Ít-ra-en rằng Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ và ban cho họ biết bao ân phúc:
- “Nguyện xin Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!”.
- “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!”.
- “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!”.
Các Giáo Phụ nhìn thấy ở nơi ba lời chúc lành này tiên trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba lời chúc lành này tóm gọn mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn.
Giáo Hội duy trì truyền thống chúc lành cho tín hữu trong các lễ nghi phụng vụ, nhất là vào cuối cử hành lễ Tạ Ơn, để nguyện xin Thiên Chúa tỏ cho thấy tấm lòng ưu ái của Ngài. Sách Lễ Quy Rô-ma dùng bản văn này như một trong những lời chúc lành nhiệm ý mà chủ tế có thể dùng cuối Thánh Lễ.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Trong một đoạn ngắn trích từ thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết chúng ta được ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa là công trình của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Cha:
Trong công trình này, Chúa Cha là Đấng có sáng kiến và thực hiện khi sai Chúa Con đến để cứu độ chúng ta và sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa chúng ta.
2. Chúa Con (4: 4-5):
Để chúng ta được nên nghĩa tử của Thiên Chúa, “khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con mình tới”. Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa “sinh làm con một người nữ và sống dưới Lề Luật”. Chính nhờ Con Thiên Chúa được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mà chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Đời sống nghĩa tử của chúng ta là thành quả của Tình yêu Thiên Chúa.
3. Chúa Thánh Thần (4: 6):
Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong lòng người Ki-tô hữu, đóng một vai trò đặc biệt trong “ơn nghĩa tử” của chúng ta hiện nay. Nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa, chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, và nhờ Chúa Thánh Thần tác động, chúng ta sống ơn nghĩa tử của Thiên Chúa luôn mãi. Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta được cảm nghiệm ơn nghĩa tử này đang khi còn sống trong trần thế này: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!”.
TIN MỪNG (Lc 2: 16-21)
Vào ngày lễ tôn vinh “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”, Giáo Hội mời gọi tín hữu suy gẫm sâu xa đoạn Tin Mừng Lu-ca 2: 16-21. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ của Hài Nhi Giê-su, Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật bất khả phân ly. Vì thế, Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng hôm nay tường thuật hai biến cố:
1.Mục Đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su là Đấng Cứu Độ của mình (2: 16-20)
2.-Hài Nhi Giê-su chịu phép cắt bì (2: 21)
1. Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su là Đấng Cứu Độ của mình (2: 16-20):
Sau khi được các thiên sứ báo một tin mừng trọng đại: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Ngài là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (2: 11) và ban một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (2: 12), các mục đồng hối hả lên đường ngay tức khắc. Thánh Lu-ca nêu bật thái độ tích cực của các mục đồng: Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ, phải ra đi để kiểm chứng tức khắc ngõ hầu nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ. Thái độ của các mục đồng nói lên biết bao điều mà người tín hữu cần phải học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết sống động: phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20), phản ứng của những người nghe họ kể lại (2: 18) và cuối cùng là phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19).
A. Phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20):
Các mục đồng “liền hối hả ra đi” vì họ quá vui mừng và nôn nóng gặp Đấng Cứu Độ. Trước đây, thánh Lu-ca đã nhận xét rằng sau biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a “vội vả ra đi” để gặp bà Ê-li-sa-bét (Lc 1: 39). Một người đã mở trọn tâm hồn mình cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình thì hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã viếng thăm mình và cuộc sống của mình có được năng lực mới, như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Am-rô-si-ô: “Không ai tìm kiếm Đức Ki-tô chỉ một nữa tấm lòng” (Expositio Evangelii sec. Lucam., in loc.).
Trong hoạt cảnh Giáng Sinh, thánh Lu-ca ba lần nói đến “máng cỏ”. Trong lần thứ nhất, Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (2: 7). Trong lần thứ hai, sứ thần cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Độ của mình: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ” (2: 12). Trong lần thứ ba của đoạn Tin Mừng hôm nay, các mục đồng đến nơi “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Câu chuyện kết thúc với phản ứng của các mục đồng: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (2: 20).
Tương phản giữa lời loan báo về Đấng Cứu Độ với hoàn cảnh của một hài nhi đặt nằm trong máng cỏ nghèo hèn tiên báo một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của Đồi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thân làm người không phải là để một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Tuy nhiên, trong mạch văn, Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ, tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ này: dấu chỉ để nhận ra Ngài đó là “một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Chiếc tã đầu đời của Ngài là chiếc khăn trùm đầu một nắng hai sương của Mẹ Ngài và máng cỏ cho bò lừa ăn là chiếc nôi đầu đời của Ngài, đó là dấu chỉ cho những mục đồng nghèo khổ và bị khinh miệt này nhận ra được Đấng Cứu Thế đã đến: con trẻ sơ sinh này sẽ là Đấng sau này đón tiếp những kẻ tội lỗi và đồng bàn với họ (15: 2). Thiên Chúa đã ưu ái những người phận hèn bé mọn (x. Cn 3: 32).
Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành Lu-ca phác họa chân dung của những người Ki-tô hữu: “Họ liền hối hả ra đi” (2: 16) để kiểm chứng những gì sứ thần đã loan báo cho họ. Họ trở về “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (2: 20). Và cuối cùng, “họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này” (2: 17).
B. Phản ứng của những người nghe các mục đồng kể lại (2: 18)
Đấng được các ngôn sứ loan báo biết bao lần và được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, nay vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất, vì thế, “khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên”. Photius giải thích: “Tại sao không kinh ngạc cho được, khi thấy trên cõi thế Đấng ở trên cõi trời, và đất và trời được hòa giải; khi thấy Hài Nhi khôn tả liên kết điều gì là trời – thần tính – và điều gì là đất – nhân tính – sáng tạo một giao ước kỳ diệu qua sự hiệp nhất này. Không chỉ họ kinh khiếp trước mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng cũng trước lời chứng vĩ đại mà các mục đồng làm chứng, những người đã không thể bịa ra điều gì họ đã không nghe và công bố một cách hùng hồn sự thật” (Photius, Ad Amphilochium, 155).
Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thành kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký ca ngợi đức nghèo khó. Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến, chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).
C. Phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19)
Thánh Lu-ca ghi nhận phản ứng của Đức Ma-ri-a: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Qua ghi nhận này, thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh ký. Thánh Lu-ca đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thần linh, từ những sự kiện mà ông đã nghe từ chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.
Lời ghi nhận này, được lập lại đến hai lần (ở đây và ở 2: 51), nói với chúng ta nhiều điều về Đức Mẹ. Với thái độ cung kính, Mẹ chiếm ngắm những điều kỳ diệu được hiện thực ở nơi cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ. Mẹ đã gẫm suy chúng, chiêm ngắm chúng và cất giữ chúng vào trong cõi thinh lặng của lòng Mẹ. Mẹ là Bậc Thầy đích thật của cầu nguyện. “Đức Ma-ri-a sử dụng cả ba năng lực quan trọng của con người. Đức Ma-ri-a ghi nhớ tất cả những gì đã nghe, đó là ký ức. Đức Ma-ri-a suy nghĩ về các điều đó, tức là dùng lý trí. Đức Ma-ri-a suy nghĩ trong lòng, tức là dùng tình cảm, vì xúc động. Ký ức, lý trí, tình cảm đều được dùng để ứng xử với những gì đã nghe” (“Nước Suối Giữa Sa Mạc”, 84).
Nếu chúng ta noi gương Mẹ, nếu chúng ta gìn giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng mình điều gì mà Đức Giê-su nói với chúng ta và điều gì Ngài làm cho chúng ta, chúng ta thật sự bước trên đường thánh thiện Ki-tô giáo và chúng ta sẽ không bao giờ thiếu đạo lý của Ngài và ân sủng của Ngài. Bằng cách suy niệm giáo huấn của Đức Giê-su như vậy, chúng ta ngày càng hiểu biết mầu nhiệm của Đức Ki-tô như lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiếp nối trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ sự chiêm niệm và học hỏi của những tín hữu đã luôn suy tưởng các việc ấy trong lòng (x. Lc 2: 19 và 51); hoặc nhờ sự thông hiểu về những cảm nghiệm thiêng liêng, hoặc nhờ sự giảng dạy của những người đã lãnh nhận cách chắn chắn đoàn sủng về chân lý, cùng với việc kế vị các Tông Đồ trong chức Giám Mục. Như thế, qua bao thế kỷ, Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý thần linh, cho đến khi các lời của Thiên Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (Vatican II, Dei Verbum, 8).
2. Hài Nhi Giê-su chịu phép cắt bì (2: 21)
Phép cắt bì là một nghi thức được Thiên Chúa thiết lập để xác định những ai thuộc về dân Chúa chọn. Thiên Chúa đã truyền lệnh cho ông Áp-ra-ham thiết định phép cắt bì như một dấu chỉ Giao Ước mà Người đã ký kết với ông và tất cả dòng dõi của ông (x. St 17: 10-14), khi quy định rằng con trẻ sẽ chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Nghi thức được thực hiện ở tại tư gia hay ở hội đường, kèm theo những kinh nguyện và việc đặt tên cho con trẻ. Khi chấp nhận sinh ra trong một gia đình Do thái, Đức Giê-su cũng tuân theo định chế này: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su”:
Với định chế Phép Rửa Ki-tô giáo, lệnh truyền cắt bì không còn được áp dụng nữa. Ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15: 1tt.), các Tông Đồ dứt khoát công bố rằng những ai gia nhập Giáo Hội không cần phải chịu phép cắt bì. Thánh Phao-lô dạy cách minh nhiên rằng phép cắt bì không còn thích đáng trong bối cảnh của Giao Ước Mới được Đức Ki-tô thiết lập (Gl 5: 2tt.; 6: 12tt.; Cl 2: 11tt.).
Tên Giê-su có nghĩa “Đức Chúa cứu độ” hay “Đức Chúa là ơn cứu độ”. Tên này được ban cho Hài Nhi không do quyết định của bất kỳ phàm nhân nào, nhưng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa mà sứ thần đã truyền đạt cho Đức Trinh Nữ và thánh Giu-se (x. Lc 1: 31; Mt 1: 21).