CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN
- Thứ hai - 28/06/2021 21:32
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên năm B nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp của Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.
Ed 2: 2-5
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá nầy.
2Cr 12: 7-10
Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.
Mc 6: 1-6
Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tín và ngờ vực của họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây là trường hợp đặc biệt.
Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã xâm chiếm vương quốc Giu-đa, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của cơn thử thách mà họ đang phải chịu ngõ hầu họ có thể thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi ngôn sứ của tư tế Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật nầy nêu bật tiếng gọi bất khả kháng của Thiên Chúa và sự cảm nhận của con người về sự nhỏ bé của mình trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật nầy cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.
1. Thần Khí nhập vào tôi:
Theo quan niệm độc thần giáo tuyệt đối của Cựu Ước, thần khí ở đây chưa là một ngôi vị phân biệt với Thiên Chúa, nhưng là một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.
Thần khí đã nhập vào “làm cho chân tôi đứng vững” (2: 2), nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, Ê-dê-ki-en chỉ là một thụ tạo yếu đuối nghiêng ngữa; nhưng khi được thần khí của Thiên Chúa tác động, ông là một con người kiên cường trong sứ mạng của mình.
2. “Hỡi con người”:
Diễn ngữ: “con người”, đơn giản hóa cụm từ: “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
Ở đây, qua danh xưng: “con người”, ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là ngôn sứ, tức là một phát ngôn nhân của Thiên Chúa với dân của Ngài đi nữa. Đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn thuần như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà qua ông Thiên Chúa đang ngỏ lời với họ.
Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi sánh ví với Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông có sứ mạng thông truyền thì cao vời khôn ví so với thân phận phàm nhân mõng dòn yếu đuối của ông.
Chính luôn luôn dưới danh xưng “con người” nầy mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en…” (2: 3). Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử sứ điệp của Thiên Chúa càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm hạ bấy nhiêu.
Đặc ngữ nầy sẽ mặc lấy một ý nghĩa mới trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một con người có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh “nhân tính tròn đầy” của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn theo truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh “nguồn gốc thần linh” của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).
3. Một dân phản loạn:
Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Ít-ra-en đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những ngôn từ rắn rõi. Trong cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ chỉ ngôn sứ.
Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn nầy biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa họ” (2: 5). Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.
BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)
Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).
Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).
1. “Cái dằm đâm vào thân xác”:
Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được nầy, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào” (12: 7).
Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời nầy thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn nầy với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14). Phải chăng thánh Phao-lô muốn nói đến một cơn bệnh hoạn nào đó mà thánh nhân gặp trong cuộc hành trình truyền giáo đầy gian khổ? Đúng hơn thánh nhân muốn nói đến nỗi buồn phiền day dứt của ngài vì đã không hoán cải được những người đồng hương của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.
2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”:
Con số “ba” xem ra không là số đếm chính xác, nhưng nói lên mức độ cầu nguyện thường hằng của thánh Phao-lô; như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thông thường thánh Phao-lô cầu nguyện với Chúa Cha (“Theos”), nhưng ở đây thánh nhân cầu nguyện với Đức Ki-tô mà ngài gọi là “Chúa” (“Kurios”). Đây là danh hiệu mà thánh nhân ưa thích: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”:
Chúng ta dễ dàng nhận ra văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng: “mạnh mẽ-yếu đuối” này. Người nào làm việc cho Thiên Chúa càng xóa nhòa công sức của mình bao nhiêu, thì người ấy càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng nầy.
Lời kết của thánh nhân ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12: 10). Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ở Chương 12 nầy, chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, nhưng đây là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu thánh Phao-lô. Nếu như không có những lời tự thú nồng nàn nầy, chúng ta chỉ có một cái nhìn phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tính khí bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác: một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Kitô.
TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)
Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những đồng hương Na-da-rét mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống gần ba mươi năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?
Chắc chắn khi viếng thăm họ, Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí (3: 21). Vào lúc đó, Đức Giê-su đã không quan tâm đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (3: 35).
Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục với một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố nầy, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).
1. Gia thế và nghề nghiệp:
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với câu chuyển tiếp nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: “Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của mình” (6: 1); tiếp đó, giới thiệu bối cảnh của câu chuyện: “Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (6: 2a). Đây là phương thức rao giảng của Đức Giê-su. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà sau nầy thánh Phao-lô chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức nầy thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng nếu như không có các hội đường Do thái, thì Ki-tô giáo sẽ không lan tràn ra khắp nơi.
Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ tụ họp ở đây để cầu nguyện, cử hành phụng vụ Lời Chúa, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát. Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét nơi Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được mời để công bố và giải thích Lời Chúa. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).
Giáo huấn của Ngài làm cho mọi người thán phục: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao?”, và những phép lạ mà họ đã nghe nói khiến họ ngưỡng mộ: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (6: 2b). Nhưng rồi từ thái độ thiện cảm lại biến thành ác cảm khi họ nghĩ đến gia thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai mà không biết Ngài: cha mẹ của Ngài, họ hàng bà con thân thích của Ngài sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ lớn lên trong làng nầy, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Khi xét đến gia thế của Ngài, họ nghi ngờ về sự khôn ngoan của Ngài: làm thế nào một người xuất thân từ một gia thế tầm thường ở giữa họ lại có những lời lẽ khôn ngoan được chứ? Cũng như khi xét đến nghề nghiệp của Ngài, họ không thể nào tin rằng những phép lạ của Ngài: làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể làm những phép lạ được chứ? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, nay họ bày tỏ thái độ thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a:
Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, thánh Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng thánh Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, người Do thái có thói quen trích dẫn tên người cha, thậm chí cho dù người cha đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô biên soạn sách Tin Mừng của mình, thì Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (x. Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài:
Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (trong ngôn ngữ Hy bá không có các từ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa chú bác và cháu (x. St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (x. Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).
Chúng ta biết hai trong số “anh em” của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và ông Giô-xết mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mc 15: 40-41; Mt 27: 56; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:
Gia thế và nghề nghiệp của Ngài trở nên chướng ngại khiến “họ vấp ngã vì Người” (6: 3). Phản ứng của những người đồng hương cung cấp cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ nhân tính của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
5. Câu trả lời của Chúa Giê-su:
Trước thái độ cứng lòng tin của những người đồng hương, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (6: 4). Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn nhiều ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven truy bắt phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị những người đương thời nhục mạ, làm khổ cách này hay cách khác.
Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật nầy. Câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét kết thúc với lời nhận định thật buồn của Đức Giê-su: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6: 6).
Với bài trình thuật nầy, thánh Mác-cô hoàn tất Phần thứ hai sách Tin Mừng của mình: “Đức Giê-su và thân nhân” (3: 7-6: 6). Phần thứ hai nầy nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.
Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ tụ họp ở đây để cầu nguyện, cử hành phụng vụ Lời Chúa, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát. Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét nơi Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được mời để công bố và giải thích Lời Chúa. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).
Giáo huấn của Ngài làm cho mọi người thán phục: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao?”, và những phép lạ mà họ đã nghe nói khiến họ ngưỡng mộ: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (6: 2b). Nhưng rồi từ thái độ thiện cảm lại biến thành ác cảm khi họ nghĩ đến gia thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai mà không biết Ngài: cha mẹ của Ngài, họ hàng bà con thân thích của Ngài sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ lớn lên trong làng nầy, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Khi xét đến gia thế của Ngài, họ nghi ngờ về sự khôn ngoan của Ngài: làm thế nào một người xuất thân từ một gia thế tầm thường ở giữa họ lại có những lời lẽ khôn ngoan được chứ? Cũng như khi xét đến nghề nghiệp của Ngài, họ không thể nào tin rằng những phép lạ của Ngài: làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể làm những phép lạ được chứ? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, nay họ bày tỏ thái độ thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a:
Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, thánh Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng thánh Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, người Do thái có thói quen trích dẫn tên người cha, thậm chí cho dù người cha đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô biên soạn sách Tin Mừng của mình, thì Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (x. Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài:
Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (trong ngôn ngữ Hy bá không có các từ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa chú bác và cháu (x. St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (x. Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).
Chúng ta biết hai trong số “anh em” của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và ông Giô-xết mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mc 15: 40-41; Mt 27: 56; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:
Gia thế và nghề nghiệp của Ngài trở nên chướng ngại khiến “họ vấp ngã vì Người” (6: 3). Phản ứng của những người đồng hương cung cấp cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ nhân tính của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
5. Câu trả lời của Chúa Giê-su:
Trước thái độ cứng lòng tin của những người đồng hương, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (6: 4). Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn nhiều ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven truy bắt phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị những người đương thời nhục mạ, làm khổ cách này hay cách khác.
Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật nầy. Câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét kết thúc với lời nhận định thật buồn của Đức Giê-su: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6: 6).
Với bài trình thuật nầy, thánh Mác-cô hoàn tất Phần thứ hai sách Tin Mừng của mình: “Đức Giê-su và thân nhân” (3: 7-6: 6). Phần thứ hai nầy nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.