Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Ơn Gọi”, hay đúng hơn: “Ơn Thiên Triệu”.
Is 6: 1-2a, 3-8
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ I-sai-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của mình từ một thị kiến uy nghi hùng vĩ xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vào năm 740 trước Công Nguyên.
1Cr 15: 1-11
Trong đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc lại ơn gọi đặc biệt mà thánh nhân đã lãnh nhận từ chính Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ngài đã biến đổi thánh nhân từ một kẻ bách đạo cuồng tín trở thành một Tông Đồ nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
Lc 5: 1-11
Thánh Lu-ca thuật lại câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi: ngay liền sau mẻ cá kỳ diệu, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan đáp trả lời mời gọi của Chúa Giê-su, họ từ bỏ mọi sự mà cất bước đi theo Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 6: 1-2a, 3-8)
Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã đọc bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Giê-rê-mi-a; Chúa Nhật này, chúng ta đọc ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a. Hai bài tường thuật được viết theo văn phong rất khác nhau và hai phản ứng của hai vị ngôn sứ này cũng đối lập với nhau. Nét đặc trưng của ơn gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a là bầu khí thân tình lòng bên lòng với Thiên Chúa, trong khi ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a được định vị vào một thị kiến uy nghiêm hùng vĩ trong một cuộc thần hiển. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a không hề run sợ trước Thiên Chúa, nhưng lại sợ hãi khi phải đối đầu với con người. Trái lại, ngôn sứ I-sai-a run sợ trước vẻ uy nghi cao cả của Thiên Chúa và tự nguyện xin Chúa sai mình đi thi hành sứ vụ của Ngài cho con người.
Xem ra ngôn sứ I-sai-a xuất thân từ một gia đình thế giá ở Giê-ru-sa-lem và có mối quan hệ gần gũi với giai cấp lãnh đạo. Những người mà ông có sứ mạng chuyển giao sứ điệp là vua và các triều thần ở chốn cung đình. Ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a được định vị vào “năm vua Út-di-gia-hu băng hà”. Vua Út-di-gia-hu là vị vua bất hạnh của vương quốc Giu-đa. Vào cuối triều đại hạnh phúc và thịnh vượng, vua bị bệnh cùi và qua đời năm 740 trước Công Nguyên.
1. Thị kiến khai mạc:
I-sai-a sinh vào năm 765 trước Công Nguyên. Vào khoảng 25 tuổi, ông đón nhận thị kiến ở Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong những giờ phút xuất thần hay trong một buổi phụng vụ. Dù thế nào, ông đón nhận một mặc khải về tính siêu việt và sự thánh thiện của Thiên Chúa đến nỗi làm xáo động tâm trí của ông. Ngay liền sau đó, ông trở thành vị ngôn sứ của Thiên Chúa ngàn trùng chí thánh.
Cuộc thần hiển được diễn tả theo hình tượng truyền thống: đất rung chuyển, khói tỏa mù mịt, như ở trên núi Xi-nai trong Cựu Ước hay như ở Nhà Tiệc Ly vào ngày lễ Ngũ Tuần trong Tân Ước. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa cõi thế. Đức Chúa tỏ mình ra cho ông I-sai-a như một vị vua quyền năng mà sự uy nghi cao cả của Ngài bao phủ đền thánh, có các thần Xê-ra-phim hộ giá. Các thần này tung hô:
“Thánh! Thánh! Chí Thánh!
Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh!
Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (6: 3).
Đây là lời tung hô “ba lần thánh”, nghĩa là, cực thánh hay ngàn trùng chí thánh, xem ra được dùng trong phụng vụ rồi. I-sai-a hiểu lời tung hô này và sẽ đặt nó vào trọng tâm sứ điệp của mình. Ông sẽ gọi Đức Chúa là “Đấng Thánh của Ít-ra-en”.
2. Sự khiêm hạ của con người và lòng xót thương của Thiên Chúa:
I-sai-a nhận ra ngay sự bất xứng của mình nên thốt lên:
“Khốn thân tôi, tôi chết mất!
Vì tôi là một người môi miệng ô uế,
tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế,
thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (6: 5).
Với lời thú nhận đầy khiêm hạ này, Đức Chúa đáp trả bằng lòng xót thương; Ngài sai một trong các thần Xê-ra-phim, tay cầm một hòn than hồng trên bàn Hương Án và thanh tẩy môi miệng ô uế của vị ngôn sứ tương lai:
“Đây, cái này đã chạm vào đến môi ngươi,
ngươi đã được tha tội và xá tội” (6: 6).
Nhờ thanh tẩy này, ông có thể xứng đáng là sứ giả của Ngài, người được Chúa sai đi truyền đạt Lời Chúa cho con người.
3. Ơn gọi:
Đức Chúa đã bày tỏ sự siêu việt của Ngài nhưng cũng sự hào hiệp của Ngài. Trước tiếng gọi của Thiên Chúa: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?”, I-sai-a mau mắn đáp trả không một chút đắn đo suy nghĩ: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Cảm thấy mình có liên đới với dân này, “một dân môi miệng ô uế”, I-sai-a sẽ là sứ giả của Thiên Chúa cho họ. Trong Tân Ước, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan sau mẻ cá kỳ diệu, sau này thánh Phao-lô sau thị kiến về Đấng Phục Sinh trên đường đi Đa-mát, đã không thể nào cưỡng kháng lại trước tiếng gọi của Chúa Ki-tô.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 1-11)
Chúng ta tiếp đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô.
1. Hai điều lợi ích:
Đoạn trích hôm nay cho chúng ta hai điều lợi ích. Điều lợi ích thứ nhất đó là thánh Phao-lô biện minh phẩm chất Tông Đồ của mình, vì thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình từ chính Chúa Ki-tô. Điều lợi ích thứ hai rất nổi tiếng: bản văn này là lời tuyên xưng đức tin về giá trị cứu độ của cái chết Đức Ki tô và một lời khẳng định quý báu về cuộc Phục Sinh, kèm theo danh sách của tất cả những chứng nhân đã thấy Đấng Phục Sinh, danh sách mà chỉ một mình thánh Phao-lô đưa ra đầy đủ nhất. Các tác giả Tin Mừng không nói đến việc Chúa Ki-tô hiện ra cho năm trăm người, cũng không nói đến việc Ngài hiện ra cho ông Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, người đảm nhận trách nhiệm của Cộng Đoàn Giê-ru-sa-lem. Trong danh sách này, thánh Phao-lô cũng kể ra việc Chúa Giê-su hiện ra cho tất cả các Tông Đồ. Thuật ngữ “Tông Đồ” ở đây rõ ràng phải được hiểu theo nghĩa rất rộng, bởi vì Nhóm Mười Hai được trích dẫn trước đó.
2. Ơn gọi của thánh Phao-lô:
Như ngôn sứ I-sai-a, thánh Phao-lô đã bị Thiên Chúa bắt lấy. Thánh nhân đã có một thị kiến về Đức Ki-tô Phục Sinh, Ngài tỏ mình ra trong một luồng ánh sáng rực rỡ khiến thánh nhân ngã xuống đất. Kẻ trước đây đã cuồng tín ra tay bắt hại các người Ki-tô hữu, bây giờ thú nhận là mình bất xứng: “Tôi là kẻ hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng giống như I-sai-a, thánh Phao-lô đã được tha thứ và được gọi đích thân: “Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Chúng ta nhận ra tâm hồn của vị Tông Đồ này: một sự trộn lẫn thường hằng giữa sự khiêm tốn và sự tự hào hãnh diện.
3.Thánh Phao-lô biện minh ơn gọi Tông Đồ của mình:
Thánh Phao-lô có nhiều lý do để mà biện minh ơn gọi của mình. Trong số những tín hữu Cô-rin-tô, vài người bác bỏ tước hiệu Tông Đồ của thánh nhân và buộc tội thánh nhân là huênh hoang tự đắc.
Ở đầu thư, thánh Phao-lô tự giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki tô” (1Cr 1: 1). Như vậy, ngay từ đầu thư, các tín hữu Cô-rin-tô được báo trước rằng vị rao giảng của họ đòi hỏi tính chính danh ơn gọi Tông Đồ của mình. Sự đòi hỏi này được lập lại xa hơn một chút: “Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em” (9: 1-2).
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay được định vị vào cuối thư, vì thế, đây là lời thánh Phao-lô nhắc lại lần thứ ba về tính chất đặc thù của ơn gọi mình: chính Đức Ki-tô đã đích thân ủy thác sứ vụ tông đồ cho thánh nhân, chứ không có bất kỳ trung gian phàm nhân nào.
TIN MỪNG (Lc 5: 1-11)
Xem ra khi viết đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca vận dụng cùng một phương pháp văn chương mà thánh sử đã sử dụng rồi trong bài trình thuật “Chúa Giê-su viếng thăm Na-da-rét”: tập hợp lại những sự kiện nối tiếp nhau thành một bài trình thuật duy nhất trong cùng một khung cảnh, để tránh những lập lại và để câu chuyện trở nên sống động hơn, thậm chí kịch tính hơn. Bài trình thuật này là “một bức tranh có ba cảnh” nối tiếp nhau:
-Chúa Giê-su rao giảng trên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét (5: 1-3).
-Mẽ cá kỳ diệu (5: 4-7).
-Ơn gọi của các môn đệ tiên khởi (5: 8-11).
1. Chúa Giê-su rao giảng bên bờ hồ (5: 1-3):
Theo Tin Mừng Lu-ca, trước đây Đức Giê-su chọn các hội đường để truyền đạt đạo lý của Ngài cho dân chúng, giờ đây Ngài chọn bờ hồ Ghen-nê-xa-rét làm khung cảnh cho lời rao giảng của Ngài. Trong cùng câu chuyện của thánh Mác-cô (Mc 1: 16-20), Chúa Giê-su chưa ban cho ông Si-mon một tên mới là Phê-rô; chỉ sau này Ngài sẽ cho ông tên mới này vào lúc Ngài chọn Nhóm Mười Hai (Mc 6: 14). Nhưng ngay trong câu chuyện của thánh Lu-ca, Chúa Giê-su chỉ định trước người ngư phủ miền Ga-li-lê này sẽ là thủ lãnh của Giáo Hội Ngài qua tên kép “ông Si-mon Phê-rô”. Như vậy, câu chuyện của thánh Lu-ca mang đậm nét viễn cảnh Giáo Hội hơn câu chuyện của thánh Mác-cô.
Trong hai con chuyền neo đậu ở đó, Chúa Giê-su chọn thuyền của ông Si-mon, “từ trên thuyền này Người giảng dạy đám đông”. Đây không phải là một sự tình cờ. Hình ảnh con thuyền Giáo Hội được thánh Phê-rô lèo lái đã trở thành kinh điển kể từ Giáo Phụ Tết-tu-li-a-nô và thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô; hình ảnh này xem ra tiềm ẩn ở nơi đoạn Tin Mừng này rồi. Đối với các Giáo Phụ, hình ảnh này là một biểu tượng kinh điển về Giáo Hội lữ hành trên trần thế, như lời giải thích của thánh Am-rô-si-ô: “Đây là con thuyền mà theo thánh Mát-thêu đang có nguy cơ bị chìm và theo thánh Lu-ca thì đầy cá. Ở đây chúng ta có thể thấy những bước khởi đầu đầy khó khăn của Giáo Hội và những thành quả sau này của nó” (St Ambrose, Expositio evangelii sec. Lucam, in loc.). Đức Ki-tô bước vào thuyền của thánh Phê-rô để giảng dạy đám đông dân chúng – và từ con thuyền của thánh Phê-rô, tức Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy toàn thể thế giới.
2. Mẻ cá kỳ diệu (5: 4-7).
Mẻ cá kỳ diệu được thánh Lu-ca thuật lại ở đây, một tình tiết mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu không biết. Chúng ta cũng gặp thấy mẻ cá kỳ diệu này ở trong phần phụ chương của Tin Mừng Gioan (ch. 21), nhưng được đinh vị sau biến cố Phục Sinh. Có thể chỉ có một biến cố duy nhất, nhưng chúng ta không biết rõ biến cố này được định vị vào lúc nào. Điều này cho thấy mỗi tác giả Tin Mừng có quan điểm thần học khác nhau về cùng một biến cố.
Sau khi rao giảng cho đám đông dân chúng, Chúa Giê-su đòi hỏi thánh Phê-rô một hành vi đức tin. Đối với một ngư phủ chuyên nghề đánh cá trên biển Hồ, đêm là thời gian thuận tiện để ra khơi thả lưới bắt cá, chứ không phải ban ngày. Ấy vậy, Chúa Giê-su lại bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, ông Si-mon nhấn mạnh sự phi lý của sự đòi hỏi này: “Thưa Thầy, chúng tôi vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”; tuy nhiên, đức tin của ông mách bảo ông chấp nhận sự thách đố này: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Đối với đức tin, điều không thể lại có thể. Một mẻ lưới đầy cá đến nỗi họ phải ra hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền khác, là Gia-cô-bê và Gioan, đến giúp.
Chúng ta ghi nhận rằng ông An-rê, anh của ông Si-mon, không được kể ra. Tuy nhiên thánh Lu-ca dùng số nhiều: “Họ đã làm như vậy, và bắt được nhiều cá”, khi nói về những người bạn đồng nghiệp cùng ở với ông Si-mon. Sở dĩ không nêu tên thánh An-rê ở đây, thánh Luca nghĩ đến bộ ba: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, bộ ba này sẽ được liên kết với Chúa Giê-su một cách đặc biệt hơn các Tông Đồ khác: chỉ ba người môn đệ này sẽ được diễm phúc chứng kiến việc Chúa phục sinh con gái của ông trưởng hội đường (Lc 8: 51), biến cố Chúa Giê-su biến hình trên núi (Lc 9: 28), và cơn hấp hối của Ngài trong vườn Ô-liu (Mc 14: 33). Thật đáng ghi nhận rằng Chúa Giê-su vẫn tôn trọng tình bạn đồng nghiệp của họ trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ của Ngài; tuy nhiên, ba người môn đệ này sẽ là cột trụ của Giáo Hội tiên khởi. Sự cộng tác của tất cả họ vào mẻ cá kỳ diệu này phác họa sứ vụ của Giáo Hội tương lai rồi.
3. Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật “ơn gọi của các môn đệ tiên khởi” trong cùng một khung cảnh bên bờ hồ. Trong khi họ đang làm công việc hằng ngày của những ngư phủ: thánh Phê-rô và thánh An-rê đang quăng lưới đánh cá, còn thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê thì đang vá lưới ở trong thuyền, Chúa Giê-su gọi họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Trước tiếng gọi của Chúa Giê-su, không một chút đắn đo suy tính hơn thiệt, họ mau mắn đáp trả bằng thái độ dứt khoát: lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài. Hoạt cảnh thật giản dị nhưng thật cảm động.
Nét độc đáo của thánh Lu-ca là liên kết câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi với mẻ cá kỳ diệu. Khi làm như thế, thánh Lu-ca làm cho câu chuyện nầy thêm phần kịch tính hơn. Các môn đệ tương lai xem ra không thể cưỡng lại trước Đức Giê-su, một nhà phép thuật thần thông hơn là một nhà giảng thuyết lưu động, cho dù họ không tách biệt quá rõ hai khía cạnh hấp dẫn này ở nơi con người Đức Giê-su. Thánh Phê-rô phản ứng như ngôn sứ I-sai-a khi thánh nhân bày tỏ một khoảng cách tách biệt giữa phàm nhân tội lỗi và Thiên Chúa thánh thiện: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Như trong câu chuyện ơn gọi của vị ngôn sứ I-sai-a, lòng xót thương của Thiên Chúa đáp trả sự khiêm tốn của vị ngôn sứ, Chúa Giê-su cũng trấn an thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chính con người mà thánh nhân có sứ mạng thu phục. Trong viễn cảnh của sứ vụ này, bờ hồ Ghen-nê-xa-rét mờ nhạt trước một thế giới bao la đang chờ đợi Tin Mừng thu phục.
Một bức tranh ba cảnh của thánh Lu-ca có một sự duy nhất thật thấm thía: trên phong nền của toàn cảnh nổi bật một viễn cảnh về Giáo Hội phổ quát.
Ý kiến bạn đọc