Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát cảm thấy trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát của họ gần kề dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài Đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su cho một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn uống cho thỏa thích được gởi đến những người lưu đày tại Ba-by-lon. Trong những năm tháng dài, những người bất hạnh này phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài trên họ.
Vị ngôn sứ này được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
1. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát”;
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói, theo thói quen của văn phong ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta trung thành một cách đặc biệt; ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn từ của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt vì những mặt hàng Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc với Cựu Ước: lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu là lương thực tuyệt vời, tức là Lời Chúa. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa “Giao Ước”.
2. Của ăn thức uống vật chất:
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Xin đừng giãm thiểu tối đa khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lết-tin, lại được uống sữa đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
3. Của ăn thức uống tinh thần:
Nhưng sâu xa hơn, là ý nghĩa tinh thần. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả, trong Cựu Ước, bởi những hình ảnh bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ thời Mê-si-a như niềm vui tương lai của những người công chính vào thời tận thế, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về nước, rĩ ra, phụn vọt lên, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng của sự sống thần linh. Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ này, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi công trường, kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này nhắc nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
4. Bữa ăn Giao Ước:
Lời Chúa này nói gì với những người lưu đày. Nó loan báo cho họ biết Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ, và còn nữa, nó là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, theo cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã hiểu ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của dân. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ gợi lại những tư tưởng rất thân thiết với những người lưu đày: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít muôn năm bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không quên!
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời mời gọi dự phần trước bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, cũng chính Ngài đề nghị những lương thực vật chất, cung cấp rượu hảo hạng cho tiệc cưới làng quê, ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành bệnh tật cho các bệnh nhân, vân vân, ngõ hầu muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bữa ăn Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta nắm bắt Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, thực tế, phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẽ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này chất chứa biết bao sự hùng hồn và cảm xúc.
1. Người Ki-tô hữu đối mặt với sự thử thách:
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Trở ngại nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Những thử thách được liệt kê ở nơi con số “bảy”, con cố chỉ sự hoàn hảo. Chắc chắn đây không là ngẫu nhiên. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11); thánh nhân thêm vào ở đây, như do sự linh cảm, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ trong cuộc tử đạo của ngài. Nhưng đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô khẳng định một cách mạnh mẽ rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và tình thân của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
2. Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét:
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô loại ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hải mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và có thể dự phần vào sự điều hành vũ trụ, cũng như mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẩy trong vũ trụ về những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích cái ác. Sự gia tăng của những mê tín này trở nên thuận lợi nhờ khoa chiêm tinh phát triển, từ đó, những tín ngưỡng dễ dàng tràn lan hơn nữa vì niềm tin trong các tôn giáo truyền thống sa sút.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh, những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên vận mệnh của con người.
Còn đối với những kiểu nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22).
Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do những toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ, đây là phép lạ đặc trưng nhất, chứa đựng mặc khải nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài tường thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tỉnh, Ngài xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết nên theo đường bộ dọc theo biển hồ và họ đến nơi trước khi thuyền cập bến.
1. Một ngày hồng ân:
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài, Ngài ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: “Ngài dạy dỗ họ suốt ngày” (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày thiên ân này bởi một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ hồ, nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng trình bày, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
2. Sự đồng nhất của những dấu chỉ:
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh sử hướng tư tưởng về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa Xi-nai lâm vào cảnh đói và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự phủ xanh miền Pa-lết tin. Điều này muốn nói rằng Đức Giê-su chính là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Rõ ràng thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người chăn chiên thời Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước tiên giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại: chính từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
3. Dấu chỉ Thánh Thể:
Phép lạ hóa bánh ra nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ rất đối xứng với những ngôn từ của Bữa Tiệc Ly.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức việc chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban ở trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số 12 ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những khách mời khác vào dự bàn tiệc của Thiên Chúa.
Những chiếc thúng được dùng để đựng những mẫu bánh thừa chắc hẳn là những chiếc giỏ mây mà người Do thái thường mang theo bên mình khi di chuyển. Vào buỗi chiều bắt đầu ngày sa-bát, họ đặt vào trong một ít rơm để ủ thức ăn, vì họ không được nhen lửa vào ngày sa-bát. Người Rô-ma gọi người Do thái là “người mang giỏ”.
4. Dấu chỉ thời Mê-si-a:
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nó còn gợi lên một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bữa tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại Mê-si-a sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh tham dự trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: sự dồi dào của ăn thức uống được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày, có nghĩa đó là giờ giải thoát của họ, giờ tha thứ và ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã điểm; giờ của Đấng Mê-si-a là giờ Thiên Chúa hiện diện và tác động giữa loài người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ lòng từ ái của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng. Họ đã đi bộ một quảng đường dài để hội ngộ với Ngài, đã lắng nghe Ngài suốt ngày, và chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu cốt yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao?
Đức Giê-su làm dịu cơn đói phần xác của họ để giúp cho họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
5. Bánh Lời Chúa:
Dấu chỉ khác của thời Mê-si-a không được bày tỏ minh nhiên, nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh là biểu tượng cốt yếu của Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh, thức ăn ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa, lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11:
“Đây sắp đến những ngày
- sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng –
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống,
mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”,
hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
6. Dấu chỉ về Giáo Hội:
Dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ được dự phần vào. Các môn đệ là những người đề nghị với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố tránh né; họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Không phải Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin? Chính niềm tin tưởng phó thác vào Ngài mà Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài. Tiếp đó, chính ở nơi họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá cho dân chúng: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Chính nhờ họ mà ân ban Thánh Thể và Lời Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và được tham dự vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội. Như người ta thường nói: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người được thụ hưởng sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thêm nữa, đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan nói về lòng nhiệt thành của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo của những biến cố cho thấy rằng những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được hiểu; chúng xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê trong việc khai lòng mở trí cho con người hiểu sứ điệp của Ngài.
Ý kiến bạn đọc