Phụng Vụ Lời Chúa ngày lễ hôm nay nêu bật tấm lòng nhân ái và yêu thương của Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ nhân loại, khởi đi từ lời loan báo cứu độ ngay khi hai ông bà nguyên tổ vị phạm lệnh truyền của Người khiến tội lỗi tràn vào công trình sáng tạo của Người như một vết dầu loang (Bài Đọc I) cho đến khi Con của Người nhập thể trong cung lòng trinh khiết vẹn toàn của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (Tin Mừng). Trong kế hoạch cứu độ này, Đức Ma-ri-a được tiền định là Mẹ của Chúa Cứu Thế, Đấng chiến thắng trên mọi tội lỗi kể cả sự chết, vì thế, Mẹ được đặc ân gìn giữ khỏi mọi tội lỗi.
St 3: 9-15, 20
Hai ông bà nguyên tổ đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa nên làm xáo trộn tất cả chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Trong hoàn cảnh như thế, Thiên Chúa loan báo một mối thù truyền kiếp và một cuộc chiến khốc liệt một mất một còn, giữa Con Rắn và người phụ nữ. Cuối cùng, Con Rắn sẽ bị đánh bại bởi “một người người đàn bà, Mẹ của Đấng Mê-si-a là Đức Ma-ri-a” như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Giê-rô-ni-mô.
Ep 1: 3-6, 11-12
Đây là đoạn trích bài thánh thi ca ngợi Chúa Cha, Đấng đã ban cho chúng ta Thánh Tử của Người. Thánh Tử này cũng là con của Đức Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể. Ở nơi Thánh Tử nhập thể này, chúng ta cũng được trở nên nghĩa tử của Chúa Cha nhờ được dự phần vào tước vị làm Con của Ngài.
Lc 1: 26-38
Thánh Lu-ca thuật lại chuyện tích “Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a”, theo đó Thiên Chúa đã tiền định Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm Mẹ của Thánh Tử của Người, Ngài sinh ra làm người hoàn hảo từ cung lòng trinh khiết vẹn toàn của Đức Ma-ri-a.
BÀI ĐỌC I (St 3: 9-15, 20)
Bài Đọc I trích từ chuyện tích thứ hai về công trình Sáng Tạo của sách Sáng Thế. Về phương diện lịch sử, chuyện tích này là chuyện tích cổ xưa nhất (khoảng thế kỷ X tCN) so với chuyện tích thứ nhất. Chuyện tích thứ hai này không chỉ kể cuộc sáng tạo con người, những còn tiếp tục kể cuộc Thử Thách và Sa Ngã của con người.
Trong chuyện tích cổ xưa thuộc truyền thống Gia-vít này, Thiên Chúa được trình bày theo lối “như nhân”, nghĩa là Ngài hành động như con người. Chuyện tích này thuộc thể loại thần thoại theo lối tiếp cận mầu nhiệm nhờ những dấu chỉ và biểu tượng. Tác giả tận dụng những hình ảnh trong kho tàng bao la của những chuyện tích thần thoại cổ xưa như “người Phụ Nữ, Cây sự sống, và Con Rắn, đây là những hình ảnh rất kinh điển và phổ biến của khoa tượng ảnh tôn giáo thuộc thiên niên kỷ thứ hai tCN; nhưng tác giả ban cho chúng một tầm mức mới. Xét toàn bộ chuyện tích, ba bài học được rút ra: tội lỗi đã nhận chìm nhân loại; không chỉ con người chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình, nhưng còn cả tên cám dỗ nữa; Thiên Chúa tiên báo một cuộc phục hồi.
Cuộc phục hồi này sẽ là một cuộc chiến thắng trên sự dữ mà “Người Phụ Nữ và Dòng Giống của Bà” mang lại. Lời tiên báo vén mở Đấng Mê-si-a và ám chỉ đến người mẹ không hề vương tội nguyên tổ của Ngài. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã giải thích lời tiên báo này là “Tiền Tin Mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ. Đó là lý do Phụng Vụ chọn lựa bản văn này vào ngày lễ tôn vinh “Đức Ma-ri-a Vô Nhiệm Nguyên Tội”.
Trong phần thứ nhất của chuyện tích, tác giả đã phân tích cách tinh tế cuộc thừ thách và sa ngã. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, tác giả phân tích cũng không kém phần tinh tế về tiếng lương tâm của những phạm nhân và sử dụng những dấu chỉ để diễn đạt tầm mức thần học.
1. Những hậu quả tác hại của tội:
Thánh ký tưởng tượng một phiên tòa. Thiên Chúa triệu tập các phạm nhân, buộc họ phải thú tội, quy trách nhiệm, và sau cùng công bố những bản án.
Hình ảnh người đàn ông và người phụ nữ trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Dấu chỉ đầu tiên của tội là kẻ phạm tội sợ diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình.
Người chồng đổ trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Dấu chỉ thứ hai của tội là tác hại đến mối quan hệ thâm giao giữa chồng và vợ. Trước đây, khi mới gặp người phụ nữ đầu tiên mà Thiên Chúa đã giới thiệu cho mình, người chồng đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây lại đổ lỗi cho vợ mình.
Còn người phụ nữ cũng tìm cách thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Lời của người phụ nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho lời nói phỉnh phờ xảo trá của tên cám dỗ lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Đó là dấu chỉ thứ ba của tội, người ta tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình.
Tội lỗi mở mắt con người để họ phát hiện là mình trần truồng. Sự trần truồng trong vườn địa đàng là biểu tượng cho sự trong trắng vô tội: “Cả hai trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2: 25); sau khi sa ngã: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Đây là một trong những hậu quả tác hại của tội là khơi dậy lòng ham muốn nhục dục.
2. Con rắn, tên cám dỗ:
Nguồn gốc của sự dữ ẩn dấu cách mầu nhiệm dưới hình ảnh con rắn, tên cám dỗ. Vì thế, Thiên Chúa giảm nhẹ trách nhiệm cho con người khi hứa với họ rằng Ngài sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho họ, trong khi con rắn đã không được khoan hồng một chút nào.
Các dân tộc cổ xưa đã nêu bật dung mạo con rắn. Một con vật trồi lên từ lòng đất, nó thuộc về thế giới dưới lòng đất, tức là thế giới đáng sợ của các vong nhân. Theo quan niệm của người xưa, con rắn là một thần thiêng nắm giữ những bí mật về sự sống và sự chết. Tuy nhiên, tác giả sách Sáng Thế cẩn trọng không cho con rắn một chiều kích nào khác ngoài chiều kích một con vật, đơn thuần là một tạo vật của Thiên Chúa (St 4: 1), để tránh cho dân Ít-ra-en nghiêng về cái nhìn nhị nguyên như thử có một Thần Ác đối lập với Thiên Chúa là Thần Thiện. Thái độ cẩn trọng này càng cần thiết hơn nữa vì vào thời này dân Ca-na-an phụng thờ thần rắn.
Sau này, tác giả sách Khôn Ngoan đã vạch mặt chỉ tên con rắn của sách Sáng Thế: “Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2: 24). Chính Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó không đứng về phái sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8: 44).
Thiên Chúa ngỏ lời với con rắn chỉ để kết tội nó. Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một chứng nhận: con rắn không có chân nên phải bò bằng bụng, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”, cách diễn tả một sự toàn thắng trên tên cám dỗ này.
Cũng vậy, sự cao cả của con người, được làm nên theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, có thể đạp dẹp đầu con rắn, trong khi con rắn chỉ có thể cắn vào gót chân của con người. Điều này được giải thích như dấu chỉ cho thấy nhân loại một ngày kia sẽ chiến thắng những quyền lực của Ác Thần.
3. Thần thoại và lịch sử:
Qua chuyện tích này, tác giả linh hứng xây dựng chuyện tích về lịch sử của dân Ít-ra-en. Vườn địa đàng là hình ảnh đầu tiên của Đất Hứa, bảo chứng đầu tiên về Giao Ước của Thiên Chúa với nhân loại. Lệnh cấm của Thiên Chúa là hình thức đầu tiên của Lề Luật. Tự tách mình ra khỏi Lề Luật là vi phạm Giao Ước này.
Thiên Chúa đã để cho con người hoàn toàn tự do tiếp cận với Cây biết điều thiện điều ác. Khi tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa chấp nhận cái may rủi của sự thất bại bên ngoài công trình của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không thể thất bại được. Thiên Chúa sẽ mang đến một linh dược cho công trình sáng tạo bị tội lỗi làm hư hỏng. Chính ở đây mà Mặc Khải Kinh Thánh vén mở một con đường hy vọng. “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đạp dẹp đầu ngươi, và mi sẽ cắn vào gót chân nó”.
4. Mối thù giữa dòng giống của người đàn bà và dòng giống của con rắn:
Người ta có thể giải thích câu này cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua diễn ngữ: “dòng giống của người đàn bà” và tất cả những quyền lực của sự ác qua diễn ngữ: “dòng giống của con rắn”. Lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Vì thế, bản dịch Hy-ngữ đặt đại từ ở giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”.
Các Giáo Phụ đã đọc thấy trong lời hứa này lời tiên báo rằng ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một phụ nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế, vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt đại từ ở giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau những bổ túc cho nhau. Người đàn bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc ảnh tượng về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giê-su trong vòng tay của Mẹ Mình.
Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan đã âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”. Nhưng trong đó Đức Ma-ri- đã không được trực tiếp chỉ ra.
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-6, 11-12)
Thánh Phao-lô viết bức thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô khi thánh nhân đang bị giam cầm tại Rô-ma, giữa những năm 61-63. Bức thư chỉ hàm chứa một lời chào rất tổng quát: “Kinh gởi dân thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (việc kể thêm “Ê-phê-xô” không gặp thấy trong những thủ bản cổ xưa nhất), điều này khiến nghĩ rằng bức thư này nhằm luân lưu giữa các cộng đồng Ki-tô hữu khác nhau của miền Tiểu Á, trong đó Ê-phê-xô là một thành phố cảng lớn.
1. Đề tài trọng tâm của bức thư:
Đề tài trọng tâm của bức thư này là ý định của Thiên Chúa trên con người, được Đức Ki-tô mặc khải và thực hiện và giao phó cho Giáo Hội theo đuổi sự nghiệp của Ngài.
Thánh Phao-lô hoan hỉ ca ngợi kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa bằng tâm tình cảm tạ Thiên Chúa theo truyền thống Kinh Thánh: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Chính luôn luôn ở nơi Thiên Chúa là Cha mà thánh Phao-lô quy hướng công trình cứu độ. Như vậy, trong đoạn văn này, Thiên Chúa là chủ từ của tất cả mọi động từ.
2. Ý nghĩa của đoạn trích thư trong Phụng Vụ hôm nay:
Thánh Phao-lô nhấn mạnh bằng cách lập đi lập lại: “Trong Đức Ki-tô, trong Ngài, trong người Con yêu quý của Người…”. Vì ý định ngay từ đầu của Thiên Chúa bao hàm viễn cảnh về việc can dự của Con Thiên Chúa: “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nên mầu nhiệm về những ơn đặc sủng của Đức Ma-ri-a được định vị vào việc tham dự trước những công nghiệp của Con Thiên Chúa cũng là Con của Mẹ. Phụng Vụ áp dụng bản văn này vào ơn tuyển chọn Đức Ma-ri-a.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca kể cho chúng ta lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a trong khung cảnh thật giản dị nhưng cũng không kém uy nghi. Tiếng “xin vâng” của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cho phép ý định cứu độ của Thiên Chúa cho con người được thành tựu, cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời được hiện thực.
1. Nguồn của câu chuyện:
Ngay trong “Lời Tựa” sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng ông đã muốn tuần tự viết ra bài trình thuật về các biến cố như một sử gia “sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Thật hợp lý để nghĩ rằng thánh ký đã hỏi Đức Ma-ri-a và đã nhận được những lời thổ lộ của Mẹ. Quả thật, không bao lâu sau đó, thánh ký nói với chúng ta đến hai lần “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2: 19, 51). Nhưng tất cả kinh nghiệm trực tiếp về Thiên Chúa đa phần thì bất khả diễn tả và bất khả truyền đạt. Để sắp xếp bài trình thuật của mình, thánh ký cũng đã được khơi nguồn cảm hứng một phần từ vài “lời loan báo” của Cựu Ước, nhất là những lời loan báo được gởi đến những người phận nhỏ, những kẻ bé mọn, nghèo hèn. Nhưng trong bài trình thuật “Truyền Tin” này, nội dung của sứ điệp thì đặc thù, độc nhất vô nhị.
2. Ý nghĩa của câu chuyện:
Việc truyền tin cho Đức Ma-ri-a và việc Ngôi Lời nhập thể hình thành nên một mầu nhiệm sâu thẳm nhất: mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, và một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy. Tất cả đều phát xuất từ tấm lòng nhân ái và yêu thương của Chúa Cha trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mõng dòn trong cung lòng vẹn sạch của Đức Nữ Trinh, tất cả đã xảy ra một cách âm thầm tại tư gia trong một làng quê Na-da-rét hẻo lánh. Thánh Lu-ca kể chuyện tích này theo văn phong rất bình dị, nhưng tất cả đều toát lên một bầu khí trang trọng, tràn ngập niềm vui và tin tưởng.
3. Mầu nhiệm Nhập Thể:
Để ở giữa loài người như một con người, Thiên Chúa khởi sự xây dựng chỗ ở của mình trong cung lòng vô tì vết của Đức Trinh Nữ. Đối ứng với mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Phục Sinh: Khi tháp nhập vào nhân loại, Con Thiên Chúa đã thúc bách những quy luật của sự sống, khi ra khỏi nhân loại, Ngài đã xô nhào những quy luật của sự chết; hai biến cố kêu gọi lẫn nhau (cũng như Ngài được thụ thai trong cung lòng vô tỳ vết, cũng chính trong nấm mồ mới chưa ai chôn cất mà thân thể của Đức Giê-su được mai táng).
Đức Gioan Phao-lô II giải thích Mầu Nhiệm Nhập Thể như sau: “Mầu nhiệm Nhập Thể là đỉnh cao của việc Thiên Chúa tự hiến thông ban. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất mầu nhiệm Ngôi Hiệp: nối kết thần tính và nhân tính trong ngôi vị duy nhất của Chúa Con. Qua việc 'trở thành người' của Ngôi Lời, sự tự hiến của Thiên Chúa đạt tới mức viên mãn trong lịch sử tạo dựng và cứu độ. Mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Con có nghĩa là bản tính nhân loại được nâng lên kết hiệp với Thiên Chúa, nhưng ở đây, bản tính đó hàm chứa tất cả những gì là 'xác phàm' nghĩa là cả nhân loại, cả vũ trụ hữu hình vật chất. Như vậy mầu nhiệm Nhập Thể mang chiều kích vũ hoàn” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).
4. Lời đáp trả “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a:
Mặc dù đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được, nhưng Thiên Chúa không làm một mình, Người muốn con người cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Người. Để cho Con Thiên Chúa thật sự làm người, Thiên Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của Đức Ma-ri-a.
Còn Mẹ, một khi biết được chương trình của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a hoàn toàn vâng phục ý muốn Thiên Chúa. Dù nhận thức rất rõ sự bất tương xứng vô tận giữa điều cô sẽ trở thành: “Mẹ của Con Thiên Chúa nhập thể”, và điều cô là một thôn nữ thấp hèn ở làng quê Na-da-rét; tuy nhiên Đức Ma-ri-a biết rất rõ đây là điều Chúa muốn xảy ra. Vì thế, với tấm lòng khiêm hạ, Đức Ma-ri-a đáp trả trọn vẹn lời mời gọi của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin của cô: “Vâng, tôi đây là tôi tớ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Vào giây phút Đức Ma-ri-a thốt lên lời xin vâng tròn đầy niềm tin của mình, biến cố Nhập Thể khởi sự chuyển động. Từ cung lòng vô tỳ vết của Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa tạo hình một con người, và Ngôi Lời đã hiệp nhất chính mình với con người này: trước biến cố Nhập Thể, Ngài đã là Thiên Chúa; sau biến cố Nhập Thể, Ngài vẫn là Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là một phàm nhân. Đấng Tạo Hóa đón nhận kiếp sống của một phàm nhân: thụ thai, sinh ra, lớn lên như bao nhiêu con người khác.
5. Đức Trinh Nữ đầy ân sủng:
Chính ở nơi lời chào của sứ thần: “Đấng đầy ân sủng” mà các nhà thần học nhận ra bốn đặc sủng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Quả thật, trong con cái loài người, Đức Ma-ri-a được Thiên Chúa sủng ái cách đặc biệt. Chỉ một mình Mẹ đón nhận bốn đặc sủng mà không một phàm nhân nào có được: ơn Vô nhiễm nguyên tội, ơn làm Mẹ Thiên Chúa, ơn trọn đời đồng trinh, và ơn Hồn Xác lên trời. Trong bốn đặc sủng này, ơn làm Mẹ của “Con Thiên Chúa làm người” là cao cả nhất, bởi vì từ cung lòng vô tỷ vết của Mẹ mà Con Thiên Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; Đấng ấy thật sự là Con Thiên Chúa đồng thời thật sự là con của Đức Ma-ri-a, vì thế Mẹ hiến trọn đời đồng trinh của mình cho ân ban này. Và trong phàm nhân không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su cho bằng Mẹ, mối quan hệ của Mẹ với Con, vì thế Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ chúng ta, không thể nào để cho thân xác của Mẹ Ngài phải chịu hư hoại trong nấm mồ nhưng được kết hiệp với Con mình cả hồn lẫn xác ngay sau khi từ giả cõi trần. Suy cho cùng, chính vì được tuyển chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa làm người mà Đức Ma-ri-a nhận được ba đặc sủng kia.
6. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội:
Trong ngày lễ tôn kính “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội”, chúng ta chiêm ngắm Mẹ “tràn đầy thánh thiện”, không một chút bợn nhơ nào ngay từ lúc mới được thụ thai trong lòng mẹ. Trong biến cố truyền tin sứ thần đã xác nhận điều đó khi cung kính chào Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc” (x. Lc 1: 28). Và Trinh Nữ đã đáp trả ý định của Thiên Chúa khi thân thưa: “Này tôi là Tớ Nữ Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài” (Lc 1: 38). Như thế, Đức Ma-ri-a đã chấp nhận trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa làm người. Vì không một tội nào ngăn trở, Đức Ma-ri-a đã hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa qua việc tận tâm tận lực phục vụ cho con người và sự nghiệp của Con Thiên Chúa cũng là Con Mẹ; và nhờ những đặc sủng của Thiên Chúa toàn năng, Đức Ma-ri-a phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền của Con Mẹ và cùng với Con Mẹ. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nhận định rất xác đáng rằng : “Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Mẹ tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Mẹ” (Vatican II, Lumen gentium, 56).
Ý kiến bạn đọc