Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng Đấng ban sự sống”.
Kn 1: 13-15; 2: 23-25
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài để họ được trường tồn bất diệt.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Đức Ki-tô đã hào phóng ban chính mạng sống của Ngài để giải thoát muôn người, vì thế, người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với anh chị em nghèo khổ bằng sự quảng đại và huynh đệ.
Mc 5: 21-43
Tin Mừng khẳng định: Đức Giê-su phục sinh bé gái mười hai tuổi. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống; Ngài nắm giữ quyền năng sự sống, tiêu diệt sự chết và thu tóm nó vào chỉ trong một giấc ngủ chốc lát.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-25)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước. Sách được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp. Vào thời đại nầy thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố nầy).
1. Bối cảnh:
Chúng ta không biết tên tuổi của tác giả sách Khôn Ngoan. Ông viết bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái Hải Ngoại của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp đã quyến rủ người Do thái và đang làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và tội thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với truyền thống Do Thái giáo. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông đã tiếp xúc với triết lý Hy-lạp. Việc tiếp xúc nầy rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận hơn, rộng mở với siêu hình học hơn so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan, hai nhà thần học Tân Ước, sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nầy những trực giác cho Ki-tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông tháp nhập viễn cảnh nầy vào trong chiều sâu của tư tưởng Do Thái giáo truyền thống.
2.Thiên Chúa không làm ra cái chết.
Tác giả khẳng định: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử”. Tác giả còn xác quyết xa hơn nữa: “Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người” (3: 9). Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết, trong mối thân tình với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là trong các Thánh Vịnh, trong số đó Thánh Vịnh nổi tiếng nhất là Tv 16, Thánh Vịnh về Đấng Mê-si-a. Niềm hy vọng nầy là tiếng kêu vang lên của người vô tội, họ xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận như quân vô đạo.
Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu nầy với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu, nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả đối lập cách sống của quân vô đạo và cách sống của những người công chính ở dưới thế, và số phận khác nhau của họ sau khi chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Quân vô đạo phải chịu cả cái chết thể lý lẫn cái chết tinh thần, nghĩa là không được hưởng nhan thánh Chúa.
3. Quan niệm con người theo Kinh Thánh:
Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn sang tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa nầy rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia sự chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp. Theo quan niệm Do thái cũng như Hy lạp, những vong nhân sống trong cõi âm ti buồn phiền tăm tối mà người Do thái gọi “shéol” và người Hy lạp gọi “hadès”. Họ có chung một niềm tin với các dân tộc khác theo đó Mẹ Đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất mẹ của mình.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi hậu Homère. Cũng vậy, trong truyền thống kinh thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trên trời và đang sống.
Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn, và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn trong tác phẩm Phédon. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn khác với thân xác; linh hồn có trước thân xác; thân xác chỉ là tù ngục giam hãm linh hồn.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Con người được tạo thành một thực thể duy nhất gồm linh hồn và thân xác. Linh hồn là nguyên lý sự sống. Nguồn sống nầy đến từ hơi thở của Thiên Chúa, tức là thần khí. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Ảnh hưởng quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi, nhưng củng cố quan niệm của Kinh Thánh về con người. Sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (3: 1). Linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách, và có khả năng thấy Thiên Chúa.
Người Do thái có một cơ hội lớn lao để đạt tới quan niệm về “sự sống lại của thân xác” trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, những nhà tư tưởng của người Do thái có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của người Hy-lạp. Thân xác, do bàn tay của Đấng Tạo Hóa tạo nên, không bị khinh chê nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
4. Cái nhìn lạc quan về con người
“Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (nghĩa là cho chúng có một cuộc sống bền vững). “Mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh”. Tư tưởng lạc quan nầy quy chiếu về chương đầu tiên của sách Sáng Thế. “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” là điệp khúc tiếp liền sau mỗi một hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”.
Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa và được diễn tả ở nơi một lời khẳng định táo bạo: “Âm phủ (quyền lực của tử thần) không thống trị trên mặt đất, vì đức công chính thì trường sinh bất tử”. Vì thế, những sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được bảo đảm một cuộc sống bất tử.
Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng: trước hết, con người được trường tồn bất diệt vì được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa; sau nữa, tác nhân của sự chết là quỷ dữ.
Lập luận thứ nhất dựa trên chuyện tích thứ nhất của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26). Sách Khôn Ngoan nói: “Họ được Thiên Chúa dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người”. Lập luận chủ yếu về sự bất tử của con người như vậy rõ ràng thuần túy Kinh Thánh, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp.
Lập luận thứ hai ám chỉ đến ám chỉ đến chuyện tích thứ hai của sách Sáng Thế về sự thử thách và sa ngã khi tác giả viết: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian”. Ở đây, cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết thần thiêng, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với con người, nhưng chỉ dẫn quân vô đạo đến cái chết thần thiêng.
Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy: “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô đã thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem: Giáo Đoàn nầy đang lâm cảnh túng thiếu. Sử gia Gio-sê-phút (cuối thế kỷ thứ nhất) kể ra một nạn đói kém dài lâu đã hoành hành xứ Pa-lết-tin, dưới thời các quan tổng trấn Cút-pi-út Fa-đút và Ti-be A-lê-xan-đê, tức giữa những năm 44-48. Sách Công Vụ Tông Đồ nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô (41-45 trước Công Nguyên). “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11: 28-30).
Vì thế, trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ nầy (chắc chắn vào năm 46); chính vào thời điểm này thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem, vẫn tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”; còn thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô thì được ủy quyền giao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại” với một điều kiện là họ phải lo cho những tín hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài: “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10), thậm chí cho dù các Ki tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
1.Ý nghĩa của lạc quyên:
Việc lạc quyên giúp đỡ Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh nhân. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc nầy, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải; cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Giáo Hội-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Giáo Hội Mẹ từ đó Lời Chúa được tỏa lan và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều nầy: “Về điều nầy …vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).
Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng mà giúp đỡ giúp đỡ các anh chị em đang lâm cảnh túng thiếu.
2. Mở rộng tấm lòng
Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời Chúa, sự hiểu biết, lòng hăng say trong mọi lãnh vực, vì thế họ phải bổ sung vào đây tấm lòng quảng đại trong dịp lạc quyên nầy nữa.
Nếu họ nhiệt tâm thực hành đức ái, chính vì thánh nhân đã chuyển lửa của ngài cho họ. Nhưng động lực chính yếu là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một biểu thức gây ấn tượng mạnh, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”.
3. “Lá lành đùm lá rách”:
Tuy nhiên, thánh nhân biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Vì thế, thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ chia sẻ với những người túng thiếu không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”.
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Đoạn văn nầy kết hợp hai câu chuyện phép lạ: phục sinh con gái ông Gia-ia (5: 21-24, 35-43) và chữa lành người phụ nữ băng huyết (5: 25-34). Đây là một ví dụ nữa về cách thức tháp nhập “hai câu chuyện khác nhau vào trong một bài trình thuật” (x. 1: 21-28; 2: 1-12; 6: 7-30; 11: 12-21). Hai câu chuyện có nhiều điểm chung: hai bệnh nhân là phái nữ; con số mười hai: người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, còn cô gái đã mười hai tuổi (5: 25, 42); hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo: phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết nan y của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; còn phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng và với lệnh truyền không được kể cho ai biết chuyện nầy; trong cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp cận với Chúa Giê-su.
Việc đan kết hai câu chuyện vào trong một bài trình thuật cũng được gặp thấy tại Mt 9: 18-26 và tại Lc 8: 40-56, nhưng câu chuyện của Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Toàn bộ bài trình thuật bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh ký nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà thánh ký chuyển tải: ví dụ như câu trả lời của các môn đệ mà thánh ký đã xây dựng thành ngôn ngữ nói: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đụng vào tôi?’”; hay thánh ký đặt trên miệng Chúa Giê-su lệnh truyền bằng ngôn ngữ A-ram, ngôn ngữ nói của Ngài: “Ta-li-tha-kum”. Nhờ những chi tiết sống động này, chúng ta dễ dàng nhận thấy ở đây diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện. Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết dẫn đến đứa bé gái thật sự chết. Cũng như trong câu chuyện cho anh La-da-rô sống lại (Ga 11), Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện nầy, Chúa Giê-su loan báo một dấu hiệu còn lớn hơn dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền trên cả sự chết.
1. Bối cảnh và các nhân vật
Đức Giê-su đã ở vùng đất của dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm; dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Tức khắc “một đám rất đông tụ lại chung quanh Ngài”. Đây là nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, thánh ký thích ghi lại những chuyển động của dân chúng: “đám đông tuôn đến với Ngài”, “họ đến với Ngài”, “họ đi theo và chen lấn Ngài”, “họ thích thú lắng nghe Ngài”, vân vân...
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Viên chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: ông phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái thập tử nhất sinh của ông. Phải ghi nhận rằng bản văn của Mác-cô có nhiều sắc thái sinh động hơn bản văn của Mát-thêu và Lu-ca. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Xin Ngài đến đặt tay trên cháu”. Ông đã chứng kiến nhiều lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật bằng cách đặt tay. Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Nhưng trên đường đi, trong đoàn người chen chúc nầy, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh băng huyết từ mười hai năm rồi vẫn vô phương cứu chữa.
2. Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y
Thánh Mác-cô thường giữ cung giọng trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một người phụ nữ kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác”. Thánh Lu-ca, thầy thuốc, sẽ giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo văn hóa Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm đến bà để khỏi làm cho mình ra ô uế (Lv 15: 19-30). Đó là lý do tại sao bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Ngài vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa bà. Bà hy vọng mình được chữa lành một cách vụng trộm. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài một ước nguyện đơn giản: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Đừng hiểu những từ ngữ nầy theo mặt chữ. Thật ra, Đức Giê-su biết người phụ nữ nầy là ai và bà đang nghĩ gì trong lòng. Thánh Mác-cô đề cao quyền năng của Đức Giê-su được xem như một loại năng lực có thể phát huy tác động một cách riêng biệt và hầu như độc lập, vì thế thánh ký diễn tả theo quan niệm dân gian về các danh y thời đó. Chúng ta không gặp thấy tư tưởng như thế tại thánh Mát-thêu: trong câu chuyện của mình, Đức Giê-su liền quay lại thấy bà, và nói với bà mà không cần chờ đợi lời giải thích của bà: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 8: 22). Trái lại. thánh Lu-ca bày tỏ cùng một cách thức như thánh Mác-cô. Nhiều lần thánh Lu-ca viết: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6: 19). Trong câu chuyện nầy, thánh Lu-ca diễn tả như thánh Mác-cô: “Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (Lc 8: 47).
Những ghi nhận của Mác-cô và Lu-ca nầy đã làm tốn không biết bao giấy mực, thậm chí có người tự hỏi phải chăng những chi tiết này phát xuất từ các sách tin mừng ngụy thư. Riêng cử chỉ của người phụ nữ còn thúc đẩy các nhà chú giải đề xuất biết bao lời giải thích. Ông Calvin phát hiện ở nơi cử chỉ của người phụ nữ nầy thái độ tương tự như thái độ tôn thờ các thánh tích mà ông kết án. Theo cùng một tinh thần, các nhà phê bình khác so sánh câu chuyện nầy với các câu chuyện được tường thuật trong sách Công Vụ: bệnh nhân được chữa lành nhờ khăn và áo đã chạm đến da thịt của thánh Phao-lô (Cv 19: 11) hay nhờ cái bóng của thánh Phê-rô chạm đến (Cv 5: 15).
Vấn đề vẫn luôn luôn được đặt ra. Tất cả việc chữa lành nhờ đụng chạm đến thánh tích nào đó được định vị trên một đỉnh núi nguy hiểm mà triền dóc nầy là lòng mộ đạo hay triền dóc kia là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng khi đọc bản văn Tin Mừng; bài học rất sáng tỏ. Rõ ràng Đức Giê-su giúp người phụ nữ hiểu: bà không được chữa lành vì bà đã chạm đến áo của Ngài, nhưng vì bà đã có niềm tin: “Nầy bà, đức tin của bà đã chữa bà”. Quả thật, trong đám đông chen lấn quanh Ngài, không thiếu những người đã chạm đến áo của Ngài, nhưng không nhận được bất cứ ân ban nào. Để đón nhận ân sủng của Đức Giê-su, cần thiết phải có một thái độ sẵn sàng bên trong. Cũng xảy ra như vậy đối với việc phục sinh con gái viên trưởng hội đường: cô bé được sống lại là nhờ lời đáp trả của Đức Giê-su cho đức tin của người cha.
3. Đức Giê-su với viên trưởng hội đường
Người nhà viên trưởng hội đường thông báo cho ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”, có nghĩa ông có đức tin rồi và phải tiếp tục tin. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự vào một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni trong câu chuyện phục sinh La-da-rô, em trai của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
4.Ý nghĩa của cái chết:
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài cũng sẽ nói với các môn đề về cái chết của anh La-da-rô như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình bóng, nhưng là một sự khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ khai mở sự sống, như chúng ta đã gặp thấy nhiều lần trong văn chương Kinh Thánh cũng như ngoài Kinh Thánh. Tất cả chi tiết của hoạt cảnh đều tuân theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum” (“Ta-li-tha”: “cô bé”, và “kum”: “hãy chỗi dậy”). Mác-cô đã bảo tồn từ A-ram, ngôn ngữ nói của Đức Giê-su, trong bản văn của mình.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc khải một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, cử chỉ nầy mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc Thiên Chúa: bữa ăn cánh chung.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. “Mười hai” Tông Đồ, nối nghiệp mười hai chi tộc Ít-ra-en, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, con số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4).
5. Những nhân chúng:
Ngoài cha mẹ của đứa bé ra, những nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy sẽ được Đức Giê-su dẫn lên núi để chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Trong câu chuyện Biến Hình, khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất”, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Ngài đã làm và nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình; đây là hai khía cạnh bất khả phân sau cái chết.
Ý kiến bạn đọc