banner_nha dong

Cam Hòa – Cam Lâm – Khánh Hòa – Đt 0258 3863020 – Email: websitemtgnt@gmail.com

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN

Đăng lúc: Thứ ba - 21/07/2020 21:46 - Người đăng bài viết: menthanhgia
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: 1V 3: 5, 7-12; Rm 8: 28-30; Mt 13: 44-52

Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A này đề nghị chúng ta suy niệm về đức biện phân.

1V 3: 5, 7-12
Trong Bài Đọc I trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất, vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết phân phải trái”, nhờ đó vua mới có thể điều hành dân của Chúa cách công minh chính trực. Lời cầu xin của vua làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Rm 8: 28-30
Trong đoạn thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc các tín hữu nhớ lại rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài.

Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để thu đắc cho được Nước Trời. 

BÀI ĐỌC I (1V 3: 5, 7-12)
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, vua chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống Kinh Thánh, vua ở độ tuổi mười hai.

1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đi đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để dâng hiến lễ lên Thiên Chúa. Vào lúc đó, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng. Đêm sau đó vua có một giấc mộng.

Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa được các nhà giải mộng vây quanh. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp thần linh trong khi ngủ mơ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Những dân tộc thời xưa cho chúng ta nhiều ví dụ về điều này. Thật đáng lưu ý rằng trong dân Ít-ra-en, cách thức mặc khải này không còn nữa trong xuất thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong những thế kỷ muộn thời hơn, kỷ nguyên của các sách khải huyền.

2. Lời cầu xin của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi khi vua cầu xin Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết biệt phân phải trái”, nhờ đó vua có thể cai trị dân của Thiên Chúa, một dân lớn mạnh như thế.

Như người gặp được kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc đẹp của các dụ ngôn của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra những giá trị đích thật. Khi thức dậy, vua hiểu lời báo mộng của Đức Chúa. Từ đó, vua điều hành việc nước một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua từ chối những phú quý giàu sang, tuy vậy, vua được ban vô số kể.

3. Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua (qua nhiều giai đoạn biên soạn) trong suốt thời gian làm việc nghiêm túc đã tra cứu những tài liệu viết và đã thu thập những truyền thống miệng, nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ thuộc trật tự thần học. Chìa khóa của lịch sử Ít-ra-en nằm trong tay Thiên Chúa. Về vấn đề này, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.

Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu ghê tởm ý tưởng tôn một người lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ mình Đức Chúa là Vua của họ. Tuy nhiên, những hoàn cảnh lịch sử đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng thể chế quân chủ này được tín nhiệm, nếu vị quân vương nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài” khi vua ngỏ lời với Thiên Chúa. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.

Thứ nữa, những phẩm chất đặc biệt của con vua Đa-vít và vinh quang của triều đại vua hiển nhiên là câu trả lời của Thiên Chúa. Ngay từ ngày đăng quang của vị vua trẻ, Thiên Chúa đã cầm tay của vua để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại Lịch Sử của dân tộc mình, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây Lịch Sử Thánh.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 28-30)

Đoạn thư này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần kết này được kèm theo với bài ca Đức Ái. Đoạn thư này thật sự khó nắm bắt những suy luận thần học về tiền định, ngay từ thời thánh Âu-gút-ti-nô.

1. Vấn đề tiền định:
Chúng ta phải hiểu những lời này của thánh Phao-lô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Con của Người, để Đức Ki-tô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?

Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn thư này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phao-lô lấy lại sự phát triển của mình trên sự công chính hóa nhờ đức tin và trên vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ “ý định” luôn luôn được thánh Phao-lô dùng theo nghĩa phổ quát, không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh việc Thiên Chúa kêu gọi và con người được gọi; đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không còn có bất kỳ chỗ nào cho việc tiền định phải chịu kết án cả.

2. Tình Chúa yêu thương:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi của tình yêu. Những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho họ”. Lợi ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là lợi ích tinh thần trong thời hiện tại. Từ “mọi sự”, đối lập với “lợi ích”, chỉ ra những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.

Đối với người Do thái, kiểu nói: “Những ai Người đã biết từ trước”, luôn luôn âm vang một tuyển chọn xuất phát từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Không phải thánh Phao-lô không biết ý nghĩa thâm sâu của nhũng lời này, nhưng thánh nhân nhấn mạnh rằng sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn biện phân của Thiên Chúa, Đấng qua thời gian nhận ra những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài bằng trọn niềm tin của mình.

3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phao-lô đặt sự lạc quan của mình dựa trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Ở đây sự ám chỉ thì dễ thấy. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài; người Ki-tô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Việc hiệp nhất với Đức Ki-tô cho phép “phục hồi hình ảnh nguyên thủy”.

Tiếp đó, thánh Phao-lô trở về khởi điểm của mình (hình thức văn chương bao hàm); thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa đến câu trả lời của con người qua đức tin, ơn công chính hóa đoạn vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt vinh quang tương lai vào thời quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang để diễn tả một điều chắc chắn. Thời quá khứ diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này. Chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, Đức Giê-su nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý (Mc 11: 24).

Chúng ta nên đọc lại đoạn thư này: tiền định được nêu lên trong thư này chính là Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ muôn thuở. Chủ đề hy vọng đem lại cung giọng cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang và cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.

TIN MỪNG (Mt 13: 44-52)
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài của Đức Giê-su về các dụ ngôn theo Tin Mừng Mát-thêu.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới trong đó hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý, có ý nghĩa rất gần nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới thì rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.

1. Hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được phân biệt rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước đó liên quan đến lời loan báo về Nước Trời và sự phát triển của nó; chúng mang tính cách chủ yếu “miêu tả”. Dụ ngôn kho báu, cũng như dụ ngôn ngọc quý, là những “lời khuyến dụ” cá nhân, khẩn trương, đanh thép, nhằm thay đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giê-su là con đường dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Ki-tô thì ngay tức khắc, trọn vẹn, không thể nào đảo ngược được, và việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho sự cốt yếu duy nhất này, là điều dễ hiểu! Với sự hiện của Đức Ki-tô, Nước Trời hiện có mặt ở đây rồi. Kho báu này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để có được kho báu này là nguồn mạch của niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do, niềm vui vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.

2. Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới này là dịp cho các môn đệ sống lại những kỷ niệm về nghề ngư phủ xưa kia của mình. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người gieo giống gieo hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đày cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất, như người gieo giống chờ đợi mùa thu hoạch để chọn lựa. Các Tông Đồ đã trở thành những người lưới người như lưới cá – và Giáo Hội tiếp nối bước chân của các ngài. Họ phải biết kiên nhẫn hết mực. Số phận đe dọa bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những từ ngữ như ở phần kết của dụ ngôn cỏ lùng.

Ở phần kết, thánh Mát-thêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Được hiểu biết Kinh Thánh cách phong phú, người kinh sư biết giá trị của những điều hoàn thiện mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ lý tưởng của tác giả Tin Mừng Mát-thêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký của thánh nhân.

Tác giả bài viết: Lm. Inhatio Hồ Thông
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc