CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Hc 27: 30-28: 7; Rm 14: 7-9; Mt 18: 21-35
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A là sự tha thứ.
Hc 27: 30-28: 7
Trong Bài Đọc I, nhà hiền triết Do thái, trung thành với luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc cho người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem và bậc hiền nhân, ông đã viết lại những lời khuyên “đối nhân xử thế” của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ Do thái giáo bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, nhà hiền triết Do thái ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Luật của Ngài làm chuẩn mực sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc báo thù và tha thứ.
1. Cách hành xử của kẻ gian ác:
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến thái độ của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài”.
Nếu ai cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, người ấy rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly”.
Đây là điều mà chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bão”.
Theo Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy, vì thế kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy.
2. Đức hạnh của người công chính:
Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha”.
Sự tha thứ được sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18).
Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà dám xin Đức Chúa chữa lành!
Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình”.
Đó chính xác cũng là lời nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12)
“Hãy nghĩ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù”.
Đây là đề tài chủ đạo của nhà hiền triết. Người công chính phải thoát khỏi mọi ưu tư hằng ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời Si-rác, Ít-ra-en chưa biết đến phần thưởng mai hậu nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những án phạt sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi”.
Thái độ nầy thật sự cao thượng dù chân trời bị giới hạn chỉ vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng nầy khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành động xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên dân Ít-ra-en và mỗi thành viên đó sao? Nền luân lý nầy thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, nếu tách ra khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô.
Trong chương 14 thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên nhiều quan điểm khác nhau trong thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi là “những người yếu” và những người thánh nhân gọi là “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.
Ở nơi lời dạy của thánh nhân, tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Kitô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ căn bản: hiệp nhất mọi thành phần của cộng đoàn: Tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ trong việc sửa lỗi cho nhau và đã cảnh báo mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật XXIII), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa: cho đến việc tha thứ vô điều kiện và luôn mãi đối với những kẻ xúc phạm mình.
1. Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò (18: 21-22):
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật nhân vật Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi thánh nhân được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai như thánh Phê-rô trong bão tố, thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê, thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần?”. Thánh nhân vừa hỏi, nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đề nghị bảy lần, thánh Phê-rô nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, còn kinh sư Jehuna thì dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam, “Sự bất quá tam”. Hơn nữa, “con số bảy” được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả mức độ trả thù tận mức : “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” (St 4: 15). Ngoài ra ông La-méc, hậu duệ của Ca-in, đã huênh hoang tự đắc với các bà vợ của mình:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Khi trả lời cho thánh Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận của La-méc bằng sự tha thứ vô giới hạn.
2. Dụ ngôn (18: 23-24)
Để minh họa tư tưởng của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc thứ nhất trong đó hiền triết Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Nước Trời. Lời khai mào nầy loan báo rằng Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa Vương Quốc nầy.
Dụ ngôn là một bi kịch gồm ba hoạt cảnh.
2.1 - Hoạt cảnh thứ nhất:
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, đòi hỏi bầy tôi thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách không là điều cốt yếu mà dụ ngôn nhắm tới.
Đức Vua đích thân triệu tập người đầy tớ mắc nợ Vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn đến mức tự sức mình chúng ta không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy là một vị quan, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan được gọi là tôi bộc của Vua.
Vì không thể trả nổi, người đầy tớ bị Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Quả thật, sự liên đới của mọi thành viên trong gia đình trải rộng cho đến món nợ mà người chủ gia đình mắc phải. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết”. Đức vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
2.2 - Hoạt cảnh thứ hai:
Hoạt cảnh thứ hai được xây dựng trên một sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Tên đầy tớ được Vua tha bổng lại hành xử đối với một trong những bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”, chính xác là những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y: liền túm lấy, bóp cổ và tống anh bạn mình vào tù mà không một chút động lòng xót thương, khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y.
Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hỗ thương giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương của y đối với bạn mình, y huỷ bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua.
2.3 - Hoạt cảnh thứ ba:
Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly của món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người đối với anh em đồng loại của mình.
3. Bài học (18: 25):
Từ dụ ngôn, Đức Giê-su rút ra một bài học quan trọng trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Bài học nầy làm chúng ta nhớ đến điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ trong kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn nầy, chính cuộc sống của Đức Giê-su bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đem đến những phương thế đổi mới tấm lòng của con người, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
Ý kiến bạn đọc