Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm A nêu lên một vấn đề cách tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.
Is 45: 1, 4-6
Bài Đọc I trích từ I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày ở Ba-by-lon. Ông thoáng thấy vua Ky-rô nước Ba-tư là dụng cụ Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh lưu đày tại Ba-by-lon.
1Th 1: 1-5
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Giáo Hội tiên khởi. Thánh nhân ca ngợi đức tin, đức cậy và đức mến của họ.
Mt 22: 15-21
Trong cuộc tranh luận với nhóm Biệt Phái, Đức Giê-su đưa ra câu trả lời cho một vấn đề nan giải giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Is 45: 1, 4-6)
Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đày tại Ba-by-lon.
Vị ngôn sứ nầy, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận nầy. Ông hứa với họ sự giải thoát sắp gần đến. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô nước Ba-tư.
Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã chiến thắng vua Mê-đi là Astyage. Sau khi đã thống nhất quyền lực Ba-tư và quyền lực Mê-đi, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào kinh thành Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày đã loan báo rằng Thiên Chúa có ý định sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh tù đày tại Ba-by-lon.
1. Đức Chúa đã chọn vua Ky-rô Ba tư, vua ngoại giáo (45: 1)
Sấm ngôn thật sự gây hoang mang. Làm thế nào Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Chúa chọn? Vị ngôn sứ xua tan những thành kiến của những người lưu đày khi khẳng định với họ đó là cách thức Thiên Chúa hành động. Ông quả quyết vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Thiên Chúa.
Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en:
“Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu, với vua Ky-rô
-Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó” (45: 1a).
Đức Chúa xức dầu thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn. Ngài “cầm lấy tay phải”, nghĩa là Ngài trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù.
Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định Đức Chúa hứa với vua Ky-rô là vua sẽ chiến thắng mọi quân thù như thế nào:
“Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (45: 1b).
Đây cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của kinh thành Ba-by-lon. Quả thật, chúng mở toang trước vua Ky-rô mà không phải tốn một làn tên mũi kiếm nào. Thành đô Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.
2. Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố (45: 4-6)
Chính vì lợi ích của dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác:
“Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,
Ta đã gọi ngươi đích, đã ban cho ngươi một tước hiệu,
dù ngươi không biết Ta” (45: 4).
Ngài “gọi đích danh vua”, nghĩa là Ngài trao phó cho vua một sứ mạng (đây là diễn ngữ Kinh Thánh được dùng để chỉ ơn gọi). Ngài ban cho vua một tước hiệu (có thể là tước hiệu “Đấng được xức dầu” hay “người mục tử của Ta”, được ngôn sứ trích dẫn ở nơi khác) dù vị vua ngoại giáo nầy không biết Ngài.
Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một người được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp: chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua nầy được sống, chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành đô Ba-by-lon. Ông kính trọng tôn giáo của kẻ bại trận.
Dù thế nào vị ngôn sứ quả quyết chỉ một mình Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố:
“Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (45: 5)
Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài.
“Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (45: 6).
Dù có ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Đó cũng là lời công bố của Đức Giê-su với quan tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11).
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 1-5)
Với Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư nầy từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là thư đầu tiên của thánh Phao-lô và cũng là bản văn Tân Ước xưa nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su, thư nầy thật sự là một chứng liệu quý báu minh chứng niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.
1. Lời chứng:
Phần đầu thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những thư thường hằng liên kết danh xưng “Thiên Chúa” với tước hiệu “Cha”: “Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Tiếp đó, danh xưng “Chúa Giê-su Ki-tô”, nghĩa là Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (Mê-si-a) và là “Chúa”, tước hiệu này bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu “Chúa” nầy cho Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ trong công việc loan truyền Tin Mừng: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà cón có quyền năng, có Thánh Thần”. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của Ki-tô giáo.
Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên, xuất hiện thành ngữ Hy-lạp: “Ecclesia” (“Hội Thánh”), để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu. Để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giê-su thật ra đã sử dụng thành ngữ Híp-ri: “Qahal”. Thánh Mát-thêu là tác giả Tin Mừng duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giê-su thành ngữ nầy (Mt 16: 18; 18: 17). Thành ngữ qahal chỉ “đại hội” của dân Do thái trong hoang địa (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc của cộng đồng phụng vụ (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thành ngữ Do thái và Hy lạp, giống nhau bởi ngữ căn của chúng: thành ngữ Do thái, qahal, bao gồm khái niệm kêu gọi, triệu tập, trong khi thành ngữ Hy lạp ecclesia phát xuất từ động từ kaleô, kêu gọi, quy tụ. Cả hai đều diễn tả chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, tập hợp lại hay quy tụ lại thành dân Thiên Chúa.
Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn nầy vào Hội-Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “thân thể của Đức Ki-tô”.
2. Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca:
Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.
Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố biển và thương mại phồn vinh. Thê-xa-lô-ni-ca là tên mà một trong các tướng lãnh của đại đế A-lê-xan-đê lấy tên vợ của mình đặt tên cho thành phố nầy. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công vụ, thánh Lu-ca đã tường thuật những diễn biến của việc thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca nầy vừa ngắn gọn vừa gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái nầy mà thánh Phao-lô lên tiếng ba ngày sa-bát liên tiếp.
Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ đón nhận, trái lại, gây phẫn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã rời bỏ thành phố ngay đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, niềm tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Ki-tô hữu non trẻ nầy. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững.
Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất nầy. Thư nầy cùng với thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, chứa chan những lời trìu mến nhất của thánh nhân.
3. Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê.
Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng ký tên vào trong cùng một bức thư: “Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau nầy trở thành thư ký của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc nầy, ông thay thế ông Ba-na-bê bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn Ti-mô-thê là một trong những người bạn đồng hành trung thành nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư sau nầy.
Tiếp đó là tên người nhận thư: “xin gởi thư nầy cho Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ý việc chuyển từ số ít tập thể: “Hội Thánh” đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em…”
4. Thiên Chúa là Cha chúng ta và là Chúa Giê-su Ki-tô.
Đây thật sự là hoàn toàn mới mẽ. Cộng đoàn Ki-tô hữu không chỉ ở trong Thiên Chúa là Cha, nhưng cũng ở trong Đức Giê-su Ki-tô được công bố là Chúa. Ngay từ những hàng đầu tiên của thư đầu tiên nầy, chúng ta gặp thấy biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô: “trong Đức Giê-su Ki-tô”, thường trở đi trở lại trong các thư của thánh nhân. Đây là biểu thức mấu chốt bày tỏ cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động tông đồ của ngài.
5. Ân sủng và bình an.
Lời chào đầu thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“charis”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào nầy trong tất cả các thư của ngài, ngoài trừ hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”: “ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thành ngữ nầy vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy điều nầy trong sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến amh em và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6: 24-26). Lời nguyện nầy tái xuất hiện trong các sách Khải Huyền Do thái như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an”, cũng như trong các lời nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô tô đem lại cho thành ngữ nầy sự giàu có của Ki-tô giáo. Ngài viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).
6. Cảm tạ Thiên Chúa.
“Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh em”. Sau nầy, hầu như các thư của ngài, thánh Phao-lô bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách Do thái. Trong thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ. Ngài diễn tả niềm vui của mình vì biết các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.
7. Ba nhân đức đối thần.
“Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Một lần nữa, bản văn Tân Ước đầu tiên nầy cho thấy một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau nầy sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần. Ở Tx 5: 8 cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân sẽ trích dẫn ba nhân đức nầy theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.
8. Chiều kích Ba Ngôi.
Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ cũng thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những đồng đạo của họ xuất thân từ Do thái. Từ đây sự tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không chỉ là hoa trái do lời rao giảng Tin Mừng của thánh nhân, nhưng còn là tác động của Chúa Thánh Thần nữa.
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa”.
TIN MỪNG (Mt 22: 15-21).
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng nhất lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giê-su: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai thế lực, tôn giáo và trần thế. Biện luận nầy gợi lên nhiều áp dụng thực tiễn khác nhau qua nhiều thế kỷ.
Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố của Đức Giê-su được ghi từ một trong những cuộc tranh luận với nhóm Biệt Phái vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Ngài kể, các thượng tế và người Biệt phái hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).
Những người Biệt Phái bàn mưu tính kế với nhau tìm cách gài bẫy để Đức Giê-su lỡ lời mà tố cáo Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ vua Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma. Những người Biệt phái hy vọng phe Hê-rô-đê làm chứng về lời của Đức Giê-su ngõ hầu có thể tố cáo Ngài.
1. Âm mưu thâm độc:
Rào trước đón sau bằng những lời “đường mật”, họ tán dương những lời dạy chí công vô tư của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là từ ngữ tôn giáo, thành ngữ nầy có cội rễ trong các Thánh Vịnh, đặc biệt Tv 119, trình bày hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư mất.
Bất chấp ác ý được khéo léo bọc trong những lời ca ngợi, thật ra những lời này diễn tả chính xác nhân cách của Đức Giê-su trong những lời dạy của Ngài. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ nêu câu hỏi có chủ ý gài bẫy Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”
Vào thời đó, miền Giu-đa có một hoàn cảnh đặc thù. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con của vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô phế truất vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa được đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn. Trong khi đó, miền Ga-li-lê và những địa hạt phương Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa và tiểu vương Phi-líp-phê.
Ở miền Giu-đa, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế cho đế quốc, vì đây là cử chỉ thuần phục chính quyền chiếm đóng. Nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế. Nhóm Biệt phái giữ lập trường trung lập: họ không thừa nhận việc sử dụng bạo lực của nhóm Nhiệt Thành cũng như tinh thần cộng tác của nhóm Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng ý định của các địch thủ của Ngài thì hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào trong một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.
Chính quyền Rô-ma ban hành ba thứ thuế thông thường. Trước hết là “thuế điền thổ”, mỗi người đều phải đóng thuế cho nhà nước một phần mười hoa màu đất đai của mình. Đoạn, “thuế lợi tức” gồm một phần trăm lợi tức của mỗi người. Sau cùng là “thuế thân” quy định mọi người nam từ mười bốn đến sáu mươi lăm tuổi và người nữ từ mười hai đến sáu mươi lăm đều phải đóng một quan tiền, tức bằng lương công nhật của một người (Mt 20: 1-2). Thuế trong câu hỏi ở đây là thuế thân.
Nếu Chúa Giê-su trả lời “được phép”, Ngài sẽ mất uy tín đối với quần chúng, vì họ đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ Rô-ma. Nếu Ngài trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với quyền lực Rô-ma, chắc chắn những người thuộc nhóm Hê-rô-đê, thân chính quyền Rô-ma, có cớ tố cáo là Ngài phản động. Nhưng nếu Ngài tránh né không trả lời thì họ đã rào trước đón sau rồi: “Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”.
2. Câu trả lời của Đức Giê-su.
Nhưng Đức Giê-su không tránh né câu hỏi hóc búa nầy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem “một quan tiền nộp thuế”. Điều nầy rất quan trọng. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của hoàng đế Rô-ma (Xê-da). Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức nầy. Ngoài ra, còn có “đồng tiền đền thờ”, đặc thù của dân Do thái, được dùng riêng cho phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ).
Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu nầy là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa Thiên Chúa và quốc gia được diễn tả rõ nét nhất. Người Ki-tô hữu vừa là công dân trần thế vừa là công dân Nước Trời. Đứng trước một sự phân biệt ấy người ta dễ rơi vào hai thái độ quá khích: hoặc đặt nặng các giá trị Nước Trời mà xem nhẹ các giá trị trần thế, hay quá chú trọng các giá trị trần thế mà hờ hửng với các giá trị Nước trời.
Câu trả lời của Đức Giê-su “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai bổn phận phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau nhưng cùng đồng hiện diện cùng nhau và có ảnh hưỡng hổ tương với nhau: tìm cách xây dựng Nước Trời qua nổ lực xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến nó và làm cho nó thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để cuối cùng dẫn đưa nó về Ngài. Như thế, phục vụ Thiên Chúa qua phục vụ tha nhân rồi. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngay nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).
Các đối thủ của Đức Giê-su nghĩ là đặt Ngài vào trong thế bí không có lối thoát, nhưng lại nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nỗi khiến họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một lời dạy rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc sống của mỗi người tín hữu giữa bổn phận công dân trần thế và bổn phận công dân Nước Trời.
Ý kiến bạn đọc