SUNG MÃN NHÂN CÁCH ĐỜI TU
Điều kiện phải có để đặt đúng vấn đề đời tu
(tiếp theo kỳ trước)
Điều kiện phải có để đặt đúng vấn đề đời tu
Sự tìm hiểu của tôi về ý nghĩa đời tu sẽ có tính cách tích cực và hữu ích, với điều kiện tôi biết xem đời tu như một huyền nhiệm. Sự hiện diện của đời sống tu trì trong Kitô giáo là một huyền nhiệm của ân sủng mà không bao giờ tâm trí thế nhân có thể thấu triệt được. Mầu nhiệm ân sủng này khó nhận ra vì hiện diện giữa bóng đen của tội lỗi. Tội lỗi trong tôi và trong những người chung quanh tôi luôn khước từ ơn thánh, cũng như luôn tìm cách phá hoại ơn Chúa gọi vào đời tu. Nơi mọi người, trẻ cũng như già, cái thiện căn rất dễ bại hoại đó là một điều khó hiểu, cũng như trong tôi bản năng hướng về điều xấu lại có thể hiện diện cùng một lúc với tiếng gọi của ơn thánh. Cũng vì thế, biết linh cảm với huyền nhiệm ơn thánh là một điều kiện thiết yếu để thấu hiểu đời tu, vì đời tu là một thiên ân. Nhờ tâm hồn biết linh cảm đó, những câu hỏi của tôi sẽ là những câu hỏi được thấm nhuần bởi lời nguyện cầu. Tôi sẽ không nài ép Thiên Chúa hoặc người đời cho tôi một giải đáp, vì tôi ý thức rằng mỗi câu trả lời cũng như những gì khả dĩ giúp tôi thấu hiểu đều là ân huệ cả. Sự huyên náo và thái độ ương ngạnh của những tu sĩ bất mãn hoặc bất đắc dĩ sẽ không làm tôi nao núng. Tâm hồn tôi sẽ hòa hợp với tâm hồn những bậc tiền nhân đã ra công tìm hiểu đời tu: Thánh Têrêsa Avila, Libermann, thánh Bernard, thánh Gioan Thập Giá.
Cũng cần phải phân biệt những vấn đề chính yếu với những vấn đề phục thuộc. Được xem là chính yếu những gì liên quan đến ý nghĩa, nền tảng và sự hiện hữu của đời tu; còn những gì chỉ liên quan đến một vài tập quán, hình thức nhất thời hoặc lối thích nghi với địa phương, những cái đó chỉ có tính cách phụ mà thôi. Mỗi khi tôi mãi miết trong những vấn đề phụ, không biết liên kết những cái phụ với cái chủ yếu, tôi sẽ đi lạc hướng; lỗi lầm của tôi còn có thể tai hại hơn thế nữa nếu trong lúc giải quyết một vấn đề phụ, tôi cứ tưởng mình đang đương đầu với một vấn đề chính yếu. Làm như vậy, tôi sẽ khẳng định hoặc lên án huyền nhiệm đời tu mà chỉ dựa vào những biểu hiện phụ thuộc và nhất thời. Trái lại, một người sẽ không bị lạc hướng nếu biết ra công giải quyết trước những vấn đề chính rồi sau đó mới đề cập đến những vấn đề phụ.
Tôi có thể tự hỏi tại sao một khi đã giải quyết xong những vấn đề chính, lại còn phải bận tâm đến những vấn đề phụ làm chi? Những vấn đề phụ liên quan đến sự nhập thể của lý tưởng đời tu vào hiện cảnh văn hóa và cuộc sống: việc tìm hiểu những vấn đề đó sẽ cần thiết mỗi khi sự hập thể này phải được thể hiện trong việc thực hành hằng ngày. Sự thiếu sót trong phạm vi này sẽ khiến cho tu viện mất hết nguồn động năng. Cơ cấu của đời tu giữa những nền văn hóa trong đó đời tu đã trồi hiện, cơ cấu đó cần phải được cứu xét lại mãi, vì những cộng đoàn tu sĩ cũng dự phần vào triến trình nhân bản hóa thế giới. Nhưng việc cứu xét đó không bao giờ được thực hiện riêng biệt, tách hẳn khỏi vấn đề chủ yếu và nền tảng.
Sau cùng, trong lúc tìm hiểu đời tu, tôi phải biết khiêm tốn nhìn nhận sức yếu hèn của tôi. Một sự tìm tòi thái quá sẽ có hại cho tôi. Nghi vấn là một khổ tâm, và sức chịu đựng của tôi có giới hạn. Trong giới hạn đó tôi có thể giữ được tâm trí quân bình, bình thản và toàn nguyên. Vượt quá giới hạn, tôi cảm thấy căng thẳng, buồn chán và xao xuyến; tôi sống trong tâm trạng phân tán, mệt mỏi và chán nản. Đó là dấu hiệu cảnh cáo tôi phải tạm ngưng việc tìm hiểu cho đến khi tâm thần lắng dịu trở lại, lúc đó tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu với tâm trí sáng suốt và bình thản.
Lúc nào tôi nhìn lại vấn đề một cách bình thản, đời sống tôi sẽ trút bỏ được những lo âu, ích kỷ, tâm hồn cởi mở chờ đón sự mặc khải của đời tu dưới khía cạnh linh thiêng của nó. Tôi sẵn sàng đón nhận sự mặc khải đó, vì một phần tôi vững tin rằng tìm hiểu một vật, một sự kiện hay một hoàn cảnh đều có thể đưa đến một lời giải đáp như vậy để đạt được với một vài hoàn cảnh nào đó. Dẫu sao, mọi sự gặp gỡ, công việc hay tìm hiểu của con người đều có thể trở nên một lối dẫn đưa vào chốn thần linh, nếu tôi sẵn sàng để nhận ra sự hiện diện của nó.
Sự hiện diện gợi đáp
Phương thức giải đáp của tôi được chỉ định không những bởi tính cách độc nhất của sinh cảnh tôi đã gặp, mà còn bởi tính cách độc nhất của nhân cách tôi. Lối hiện diện của tôi phải phù hợp với cá nhân tính của tôi. Tôi không thể nào bắt chước y hệt những kinh nguyện, cử chỉ và tình cảm của một người khác được. Tôi có một lối “đặc biệt để sống đời tu”; trong đời tôi, tôi phải khám phá ra cách thức đặc biệt đó. Và nếu chỉ dựa trên suy luận lý thuyết, tôi sẽ không bao giờ tìm ra được. Suy luận lý thuyết là hình thức hoạt động của một trí năng cô lập, khép kín. Tôi cần suy luận dựa vào kinh nghiệm. Cách suy luận này không gạt bỏ lý luận trừu tượng, nhưng làm cho sự lý luận này ăn khớp với thực tại. Trong cuộc sống hằng ngày tôi chẳng nên mơ mộng, trừu tượng và hời hợt; trái lại tôi phải sống thực sự nơi mà tôi đang hiện hữu. Nếu tôi phải sống thực sự nơi này và trong giây phút này, nếu tôi náu mình trong dĩ vãng, hoặc áy náy cho tương lai, hoặc mãi miết trong những tham vọng vị kỷ và bất chính, tôi sẽ không thể nghe tiếng Thiên Chúa hoặc nhận ra phương thức nào Ngài dùng để nói với tôi trong yên lặng.
Lúc có ơn thánh, nhãn quan của tôi sẽ sáng suốt, tri giác tinh nhuệ. Tôi sẽ sẵn sàng đón nhận tất cả mặc khải về ý nghĩa đời tu. Trái lại, lúc bản thân lo âu quá đáng đến chức nghiệp hoặc sự thánh thiện, tôi không thể nào cảm thấy hiện diện của Thiên Chúa và thái độ đáp ứng mà Ngài đòi hỏi ở tôi. Cái huyên náo của tính vị ngã lấn át tiếng gọi của Thiên Chúa. Tôi không thể nào thực hiện hoàn toàn lối hiện diện đáp ứng với tiếng gọi mỗi giờ phút; tuy nhiên với ơn Chúa, tôi có thể hiện diện như vậy một vài lúc trong ngày. Sự tỏa sáng của những khoảnh khắc đó sẽ thấm nhuần tất cả thời gian còn lại trong đó đời sống tu trì của tôi tuy không được tràn đầy nhưng vẫn tồn tại vì được nuôi dưỡng bưởi những giây phút hiện diện sung mãn. Nếu sau nhiều năm với ơn Chúa giúp, tôi có thể tiến đến một đời sống như vậy, thì tôi sẽ thực hiện được cái “tôi đích thực”. Khi đó, mỗi ngày sẽ là một ngày tốt đẹp, mỗi mùa sẽ là một mùa tươi sáng.
Sự rèn luyện giác quan cho tinh nhuệ không tạo được điều kiện để cảm thấy Thiên Chúa trong đời tu; điều kiện đó chỉ phát sinh bởi một lối sống đặc biệt chi phối toàn thể nhân cách của tôi. Lối hiện diện căn bản này đòi hỏi sự quên mình, bình thản chú tâm đến thực tại, hòa mình với người và hoàn cảnh thế nào để tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự. Kiểu thức hiện diện này có thể đạt được khi tôi biết gạt bỏ nhưunxg ý tưởng và vấn nạn khả dĩ gây phân tán và lo âu cho tâm hồn, để rồi dưới ảnh hưởng của sự hiện diện thần linh tôi chấp nhận cuộc sống hiện tại mà không định tâm vào một khía cạnh hữu hạn nào của hoàn cảnh. Muốn được hiện diện sung mãn, tôi phải bình thản mà sống; tôi phải để cho dòng tư tưởng và cảm nghĩ vị ngã tiêu tan trong cái hư vô của một tâm trí bình thản. Khi nào tâm trí sạch mọi tư tưởng và cảm nghĩ vị ngã, lúc đó tôi có thể hiện diện xung mãn trước ý nghĩa sâu xa nhất của đời tu. Chính tâm trạng này phải hướng dẫn tôi trong lúc tìm hiểu đời tu.
(còn tiếp)
Trích trong tập sách SUNG MÃN NHÂN CÁCH ĐỜI TU của Adrian Van Kaam, Hồng Quang FSC dịch
Ý kiến bạn đọc