Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc vào thời cánh chung, đồng thời ơn cứu độ được thực hiện cho muôn dân nước vào thời thiên sai. Bàn tiệc cánh chung và bàn tiệc thiên sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong đoạn trích “khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân là bàn tiệc cánh chung. Đây là niềm vui của những người được tuyển chọn, theo đó mọi đau khổ và sự chết hoàn toàn biến mất trong Thiên Quốc.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tâm tình tri ân đối với cộng đoàn Ki-tô hữu nầy. Trái với thông lệ của mình, ngài đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất của họ khi ngài gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng là dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử mà Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách của mình. Những quan khách được mời lại từ chối. Lời mời được gởi đến cho tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Bản văn nầy bao gồm các chương 24-27, đây là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại “sấm ngôn khải huyền”. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy.
Viễn cảnh là thời cánh chung hòa lẫn với viễn cảnh thời thiên sai. Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân, diễn tả ơn cứu độ phổ quát cũng như niềm vui chan chứa của những người được tuyển chọn.
1. Viễn cảnh thời cánh chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc”.
“Trên núi nầy”, đó là núi Xi-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Xi-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2: 1-5).
Cũng được chính vị ngôn sứ nầy nhắc lại:
“Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày,
vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một viễn cảnh như thế (Dcr 8: 20-23). Thời cánh chung sẽ là thời điểm Đức Chúa ngự trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc hoàng gia. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn “tiệc cưới hoàng gia” (Mt 22: 1-14).
Trong bữa tiệc này, thức ăn và thức uống đều hảo hạng:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế”.
Phẩm chất hảo hạng của bữa tiệc thắp sáng tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ “thịt béo” luôn luôn được dành riêng dâng lên Thiên Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, “rượu ngon” là niềm vui vĩnh viễn:
“Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân,
và tấm màn liệm bao trùm muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chan chứa hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
3. Viễn cảnh thời thiên sai:
Sấm ngôn hoàn tất với bài ca cảm tạ tri ân về những thiên ân chưa từng được ban cho và một niềm tin tưởng vô bờ:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Đức Chúa, chúng ta từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’”.
Niềm vui tròn đầy, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu thời thiên sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ của bữa tiệc thiên sai đích thật: bữa tiệc thánh thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Đoạn trích thư hôm nay là phần kết thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê.
1. Chấp nhận sự trợ giúp của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Xin nhắc lại, thánh nhân viết bức thư nầy khi ngài đang sống trong cảnh giam cầm hoặc ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ thánh nhân trong hoàn cảnh bị giam cầm, vả lại đây không là lần đầu tiên (x. Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn duy nhất mà thánh nhân đã không từ chối giúp đỡ vật chất. Thánh nhân luôn bận lòng là không bao giờ trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không, như “đầy tớ” của Đức Ki-tô, Đấng không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính đôi tay của mình để cung cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12).
Tuy nhiên, do mối thân tình và niềm tin tưởng của thánh nhân đối với các tín hữu Phi-líp-phê, ngài chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành của họ đối với ngài.
2. Hài lòng trong mọi hoàn cảnh:
Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Épictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết này múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Ki-tô, Đấng sống trong thánh nhân.
Vị sứ đồ muốn các tín hữu hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai, ngài quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1Cr 9: 12).
3. Cám ơn tấm lòng của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Thánh Phao-lô bày tỏ lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ (các tín hữu Phi-líp-phê) vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3).
Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ từ bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói về các tín hữu Phi-líp-phê như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối thư, thánh nhân ngỏ lời trước hết với “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó với “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn nầy cùng với hai dụ ngôn đi trước: dụ ngôn hai người con và dụ ngôn những tá điền gian ác, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: lương dân thay thế dân tuyển chọn, dân bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn tiệc cưới, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung, cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1. Bàn tiệc thời thiên sai (22: 1-7):
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, “Đức Vua” đại diện Thiên Chúa, “Người Con” đại diện Đấng Cứu Thế, và “tiệc cưới hoàng gia” là giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Các quan khách được đức vua ưu ái gởi thiệp mời trước, sau đó sai đầy tớ đến nhắc lại, không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Vài quan khách còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua.
Họ chẳng những không đáp trả lời mời dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội, nhưng còn bách hại các gia nhân mà vua sai đến với họ, vì thế “nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Trong bối cảnh Kinh Thánh, cách hành xử của nhà vua như thế là những án phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ gian ác này, nhưng ở đây dường như là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 Công Nguyên bởi đạo quân Rô-ma.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc màu da, tốt xấu, được mời gọi thay thế dân Ít-ra-en bất trung: “Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Sự chọn lựa giữa người tốt kẻ xấu sẽ xảy ra sau nầy vào thời cánh chung như trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng hay trong dụ ngôn chiếc lưới.
Trong cùng một câu chuyện của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Đức Giê-su ưu ái đặc biệt, họ đã hoan hỷ tiếp đón Tin Mừng và đã dự phần vào niềm vui thiên sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2. Bàn tiệc thời cánh chung (22: 8-14):
Từ bàn tiệc thời thiên sai, dụ ngôn chuyển sang bàn tiệc thời cánh chung. Có sự khác biệt đáng kể giữa bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung. Trong bàn tiệc thời thiên sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi (không phải lời mời gọi của Đức Giê-su đặc biệt ngỏ lời với những người tội lỗi sao?). Trái lại, trong bàn tiệc thời cánh chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép tham dự khi mặc y phục của những người công chính.
Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn của đức vua: “Này bạn”, luôn hàm chứa sắc thái khiển trách như chủ vườn nho nói với tá điền của giờ thứ nhất: “Nầy bạn”, hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa đến bắt Ngài: “Nầy bạn”.
Làm thế nào có thể trách cứ người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi mà anh được mời vào dự tiệc cưới bất ngờ từ ngoài đường? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Một tập tục như vậy không được chứng nhận ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thật sự rõ ràng: không ai được phép dự phần vào bàn tiệc Nước Trời, nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi Tin Mừng như lời dạy của thánh Phao-lô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27). Mặc lấy Đức Ki-tô, chính là: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4: 22-24).
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, rõ ràng không ăn khớp với phần thứ hai của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời cánh chung, trong đó một số lượng lớn khách được mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn câu cuối nầy liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời thiên sai, trong đó một ít người dân Ít-ra-en, dân tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thiên sai, khi so sánh với muôn dân nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng, tham dự bàn tiệc thiên sai, gia nhập Giáo Hội.
Ý kiến bạn đọc